Đó là Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật sinh ra; Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật thành đạo; Vườn Lộc Uyển, nơi Ngài thuyết giảng bài kinh đầu tiên "Tứ diệu đế"; và Câu Thi Na, nơi Đức Phật nhập niết bàn
Lâm Tỳ Ni - nơi Đức Phật đản sinh
Chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Koltaka của Ấn Độ chỉ sau khoảng 2 tiếng rưỡi bay từ Nội Bài. Chuyến bay thẳng của IndiGo từ Hà Nội giúp chúng tôi tiết kiệm được không ít tiền bạc và thời gian vì không phải transit qua các sân bay khác.
Niềm ao ước của chúng tôi, dù không phải Phật tử, là được một lần đặt chân tới 4 thánh tích đã được ghi lại trong kinh sách. Nơi theo lời Đức Phật, nếu ai đến đây với thân tâm hoan hỉ, khi qua đời sẽ được tái sinh ở cõi người, hoặc cõi trời.
Lối vào Bồ Đề Đạo tràng, thánh tích quan trọng nhất trong bốn thánh tích. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, Ðức Phật đã nói với ngài A Nan Ðà rằng những người thiện tín nên đến chiêm ngưỡng bốn thánh tích với lòng tôn kính và với tâm thâm tín hoan hỉ. Nếu được như vậy, khi mệnh chung sẽ sinh cõi người hoặc cõi trời.
Nếu trước đây, hành trình đi 4 thánh tích kéo dài đến hai tuần thì nay có thể gói gọn trong 7 ngày. Thậm chí, với những người ít thời gian, chỉ cần chuyến bay thẳng của IndiGo từ Hà Nội sang Bồ Đề Đạo Tràng với giá vé chỉ bằng chặng Hà Nội –TP HCM là đã có thể ngồi thiền để tìm sự tĩnh tâm trong một không gian đặc biệt đầy năng lượng ở nơi được coi là "rốn của vũ trụ".
Hoàng hôn ở Lâm Tỳ Ni
Chúng tôi đến Lâm Tỳ Ni khi hoàng hôn đã buông những giọt nắng cuối cùng xuống những vạt lau. Thánh tích nơi Hoàng hậu Maya hạ sinh Thái tử Siddhattha Gotama dưới gốc cây sala (vô ưu) trong buổi chiều về tối đã chuyển sang màu hồng sẫm.
Theo tập tục của người dân bấy giờ, hoàng hậu Maya phải về quê ngoại để sinh nở. Khi nghỉ chân tại vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu tắm trong một hồ nước trong xanh và mát. Sau đó, bà đi dạo trong vườn khoảng 20 bước chân, tay vịn vào nhánh cây vô ưu quay về hướng đông và hạ sinh thái tử.
Ánh trăng chiếu trên đền thờ Hoàng hậu Maya ở Lâm Tỳ Ni
Dù là thánh tích quan trọng nhưng một thời gian rất dài, Lâm Tỳ Ni bị lãng quên. Ðến tận năm 1896, tức là khoảng 2500 năm sau, hai nhà khảo cổ người Ðức Alois A. Fuhrer và Khadga Samsher mới khai quật và phát hiện tại nơi đây một trụ đá có ghi khắc sắc lệnh của vua A Dục (Asoka), mới biết đây là nơi Đức Phật đản sinh.
Sau khi được các nhà khảo cổ xác nhận các chứng tích lịch sử, năm 1997, UNESCO đã chính thức công nhận Lâm Tỳ Ni là Di sản văn hóa của nhân loại.
Bồ Đề Đạo Tràng - "rốn" của vũ trụ
Một nhà sư ngồi thiền ở Bồ Đề Đạo Tràng
Năm 574 trước công nguyên, sau khi đã tu khổ hạnh 6 năm, ở phía Nam thành Gaya, nước Ma Kiệt Đà (Magadha) thời Ấn Độ cổ đại, nay là vùng ngoại ô Bodhgaya, Thái tử Siddhattha đã trở thành Phật sau 49 ngày đêm ngồi thiền nhập định dưới bóng cây bồ đề .
Cây bồ đề linh thiêng nơi Đức Phật đã ngồi thiền 49 ngày và thành đạo
Chân trần, không điện thoại thông minh, chúng tôi bước vào nơi Đức Phật thiền định 49 ngày đêm dưới gốc cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng bằng những bước chân rất nhẹ.
Tháp Đại Giác (Mahabodhi Vihar Temple) đứng sừng sững với chiều cao khoảng 52 mét, mỗi cạnh vuông là 15 mét, được vua A Dục (Asoka) xây dựng vào khoảng 250 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Ngôi bảo tháp được bao bọc xung quanh bởi 4 tháp nhỏ với cấu trúc tương tự tháp nhọn, phía trên thờ xá lợi của Đức Phật, còn phần phía dưới là chính điện gọi là tháp Mahabodhi.
Cây bồ đề lịch sử nằm sau lưng tòa tháp, chung quanh có hàng rào bảo vệ, bao nhiêu thế kỷ đã trôi qua, vòm cây nguy nga, tán trùm rợp ra cả phía ngoài khuôn viên và người ta phải chống đỡ những cành ngang bằng trụ sắt. Cây bồ đề này đã bị hủy hoại nhiều lần nhưng kỳ diệu, ở nơi mà nó bị huỷ diệt, sức sống mãnh liệt lại đâm lên những chồi non, sống mạnh mẽ đến bây giờ.
Vườn Lộc Uyển (Sarnath) - nơi Đức Phật giảng bài kinh đầu tiên
Vườn Lộc Uyển ở Varanasi, nơi Đức Phật đã thuyết giảng bài kinh "Tứ diệu đế" về quy luật tự nhiên của vạn vật
Năm tuần sau khi giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, Ðức Phật đã đi từ Bồ Ðề Ðạo Tràng, vượt hơn 120 km để đến vườn Lộc Uyển ở Varanasi. Ðến đây ngài đã thuyết giảng bài kinh "Tứ diệu đế" về quy luật tự nhiên của vạn vật cho năm vị tu sĩ khổ hạnh và cũng là những người bạn đồng tu khổ hạnh - năm anh em Kiều Trần Như, trong lần thuyết pháp đầu tiên.
Ðức Phật đã giác ngộ họ về nguyên nhân của sự khổ, con đường thoát khổ và Phật giáo bắt đầu từ đây được truyền bá rộng rãi. Sarnath được xem là thánh địa của Phật giáo và là một trong những điểm hành hương không thể thiếu khi đến Varanasi.
Mặc dù bị tàn phá nhiều theo thời gian nhưng Sarnath vẫn luôn tỏa sức hấp dẫn du khách muốn tìm về để tưởng nhớ Đức Phật.
Kushinagar - nơi Đức Phật nhập niết bàn
Người dẫn đường đặc biệt của chúng tôi, Đại sứ Phạm Sanh Châu kể ông không phải là một người theo đạo Phật nhưng là người tâm hướng Phật.
Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Phạm Sanh Châu tại nơi Đức Phật được hoả thiêu (trà tỳ)
Trước khi có Phật giáo, Ấn Độ chưa từng biết đến sự bình đẳng. Nhưng Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng chống lại những luật lệ xã hội áp bức đó và lên án hệ thống giai cấp. Đạo Phật đã đem đến tư tưởng của hòa bình, của lòng từ bi hỉ xả, giúp con người thoát khổ. Và vì vậy, hành trình đến bốn thánh tích là hành trình mà những người hướng Phật, ngưỡng mộ đạo Phật, nên trải nghiệm ít nhất một lần trong đời.
Đại sứ Phạm Sanh Châu, Thượng toạ Thích Giác Hiệp, Phó Ban Quốc tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tại tháp Đại Niết Bàn.
Các nhà sư ngồi thiền tại tháp trà tỳ Angrachaya - nơi trà tỳ kim thân Đức Phật
Hình như chúng tôi cũng đã được giác ngộ ít nhiều sau khi đọc bài kinh chuyển pháp luân tại chính nơi Đức Phật đã giảng bài kinh đầu tiên, cách đây gần 2600 năm. Đôi khi, chỉ một chuyến đi, bạn có thể có những chuyển biến rất kinh ngạc về tâm trí và ý thức.
Đoá hoa Dâng Phật tại tháp trà tỳ Angrachaya
Đặt những đóa hoa tinh khôi buổi sớm mai nơi Đức Phật nằm xuống, đọc bài kinh chuyển pháp luân, bước ra khỏi tháp đại Niết Bàn ở Kushinagar (Câu Thi Na), tôi thở một hơi thật sâu, tự nhiên thấy mình đã có thể bỏ lại phía sau những hờn giận, âu lo, chỉ để nghĩ về những niềm vui, những điều tốt đẹp.