Trong bối cảnh đó, động lực tăng trưởng kinh tế tiếp tục phải trông chờ vào hoạt động xuất khẩu (XK).
Điểm sáng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch XK cả nước trong quý I/2017 ước đạt 43,73 tỉ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một điểm sáng của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh tăng trưởng GDP quý I chỉ đạt 5,1%, thấp nhất trong 3 năm trở lại đây và thấp hơn nhiều so với kỳ vọng.
Xét về các nhóm hàng XK, nhóm nông, lâm, thủy sản có mức tăng 12,2%, chiếm tỉ trọng 12,5% tổng kim ngạch XK hàng hóa và cao hơn mức 11% của năm ngoái. Nhóm công nghiệp chế biến cũng có mức tăng trưởng ấn tượng là 12,5%. Đáng lưu ý, kim ngạch XK nhóm nhiên liệu khoáng sản đang dần lấy lại mức tăng trưởng khi tăng tới 43,5% sau một thời gian giảm khá sâu nhờ sự phục hồi của giá dầu thế giới.
Ông Đinh Tuấn Minh, Giám đốc điều hành Công ty Nghiên cứu thị trường MarketIntello, cho rằng tăng trưởng XK quý I/2017 đạt mức cao (12,8%), cùng với việc cầu tiêu dùng nội địa yếu thời gian vừa qua, cho thấy XK sẽ là một trong những yếu tố then chốt giúp Việt Nam theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm 2017. Những thách thức kể trên, cùng với diễn biến chính trị khó lường tại nhiều quốc gia phát triển và chính sách thương mại chưa rõ ràng của Mỹ sẽ đòi hỏi Chính phủ và các cơ quan xúc tiến thương mại quốc tế có những biện pháp thích hợp để bảo đảm sự phát triển bền vững của hàng hóa XK Việt Nam. Nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới sẽ là tập trung củng cố các thị trường có tốc độ tăng trưởng cao như Mỹ và châu Âu vì tiềm năng tại các thị trường này còn lớn.
Giảm dần sự phụ thuộc vào FDI
Cũng theo ông Đinh Tuấn Minh, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường XK và hướng tới các thị trường có FTA tiềm năng có tốc độ tăng trưởng cao như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Nhật Bản và ASEAN. Hàng hóa của Việt Nam có tận dụng được các thị trường chất lượng cao này hay không phụ thuộc vào khả năng áp dụng công nghệ kỹ thuật, cải thiện mẫu mã, bao bì và xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp (DN) Việt. Đối với thị trường ASEAN, Việt Nam cần nhận thức rõ sức ảnh hưởng của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đến cạnh tranh giữa hàng hóa các nước trong khu vực trong thời gian tới. “Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức để sản phẩm trong nước tiếp cận với người dùng tại các quốc gia có vị trí địa lý và thị hiếu tiêu dùng tương đồng với Việt Nam” - ông Đinh Tuấn Minh nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia kinh tế, vấn đề đáng lưu ý đối với tăng trưởng XK của hàng hóa Việt Nam gần đây là XK của khu vực DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh và chiếm tỉ trọng kim ngạch ngày càng lớn. Cụ thể, XK của khu vực FDI tăng với tốc độ trung bình 21,3%/năm trong 5 năm gần đây, cao hơn mức tăng XK cả nước trung bình là 12,7% và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn. Năm năm qua, XK của khu vực này chiếm tỉ trọng 72% trong tổng kim ngạch XK, tăng rất cao so với tỉ trọng 47% của năm 2010. Đến năm 2016, XK của các DN FDI đã cao gấp hơn 2 lần DN 100% vốn trong nước.
Chuyên gia kinh tế, TS Lê Đăng Doanh nhìn nhận giá trị gia tăng của Việt Nam trong XK vẫn còn rất khiêm tốn, nếu so sánh với kim ngạch XK của khối DN FDI. Kim ngạch XK của khối này tăng tới 20% trong vòng 10 năm qua, nhưng giá trị đóng góp vào nền kinh tế Việt Nam chỉ tăng 3%-4%, điều này cho thấy Việt Nam vẫn chỉ làm thuê, đóng gói, gia công và nhân công giá rẻ.
“Giá trị gia tăng của Việt Nam rất khiêm tốn khi hàng dệt may có đến 60% đầu vào vẫn là nguyên liệu nhập từ Trung Quốc. Trong khi Samsung năm 2016 xuất khẩu 34,3 tỉ USD, chiếm tới hơn 18% tổng lượng XK. Từ những số liệu này cho thấy Việt Nam cần hướng đến một cái nhìn cầu thị, hiện thực hơn về tình hình XK, tránh việc “tự ru ngủ” đã là một cường quốc XK, trong khi đó giá trị gia tăng hàng XK lại rất khiêm tốn” - TS Lê Đăng Doanh nhấn mạnh.