Cùng với cảnh báo nguy cơ tăng trưởng tín dụng nóng trong năm 2017, các chuyên gia kinh tế cũng lưu ý nhà điều hành cần kiểm soát dòng tiền chảy vào chứng khoán, bất động sản (BĐS) để không đi vào vết xe đổ như một số thời điểm cung tiền ra nhiều như trước đây.
Tăng trưởng 8% hay trên 10%?
Theo công bố mới nhất của Ngân hàng (NH) Nhà nước, tính đến ngày 30-6, tăng trưởng tín dụng đạt 9,06% so với tháng 12-2016, là mức tăng cao so với nhiều năm trở lại đây. Đáng lưu ý là cơ cấu tín dụng đã chuyển biến tích cực, tín dụng cho sản xuất kinh doanh chiếm tỉ trọng khoảng 80% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống. Trong đó, tín dụng đối với một số ngành kinh tế trọng điểm tăng cao hơn so với mức tăng chung của toàn hệ thống. Chẳng hạn tín dụng đối với ngành công nghiệp ước tăng khoảng 10,34% (chiếm tỉ trọng 22,5%), trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,12%; ngành xây dựng tăng khoảng 15,01% (chiếm tỉ trọng 9,91%); tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và các nhu cầu vốn trên địa bàn nông thôn tăng 9,9% (chiếm tỉ trọng 19,48%). Ngược lại, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro là kinh doanh BĐS ước chỉ tăng 5,53%, chiếm tỉ trọng khoảng 6,86% tổng dư nợ của toàn hệ thống do sự phục hồi của ngành xây dựng và các ngành có liên quan. Điểm đáng lưu ý nữa là tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông chỉ chiếm khoảng 1,54% tổng dư nợ cấp tín dụng chung, tăng 1,75% so với cuối năm 2016.
Một lĩnh vực bứt phá nhanh cả về quy mô và tốc độ là tín dụng tiêu dùng ước tăng 7,01%, chiếm tỉ trọng 15,17% tổng dư nợ tín dụng. Các lĩnh vực giải ngân là nhu cầu về nhà ở, phương tiện đi lại, học tập, chữa bệnh, du lịch, văn hóa, thể thao... nhằm cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân và góp phần kích thích tiêu dùng trong nước.
Tín dụng thực chảy vào bất động sản phải trên 10% Ảnh: Hoàng Triều
TS Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế trung ương, cho rằng thực chất cho vay tiêu dùng phần lớn là cho vay BĐS, nếu cộng cả tín dụng cho vay tiêu dùng thì tín dụng thực chảy vào BĐS phải là trên 10%. NH Nhà nước cần chú ý để có các biện pháp giám sát dòng tiền vào các lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, BĐS.
Cùng quan điểm này, TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), cũng cho rằng tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro có dấu hiệu tăng nóng, đặc biệt là khi dòng tiền có xu thế đảo ngược, tín dụng cho vay tăng trưởng nhanh hơn huy động trong nửa đầu năm nay.
Kiểm soát đã tốt hơn
TS Cấn Văn Lực cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam 6 tháng đầu năm tăng trên 16%, đứng thứ 2-3 trong khu vực song tín dụng chảy vào thị trường này không đáng lo vì dòng vốn nước ngoài đổ vào khoảng 1 tỉ USD, trong đó 2/3 là trái phiếu và 1/3 là cổ phiếu. Nguyên nhân vì hệ số PE của thị trường chứng khoán Việt Nam so với quốc tế còn hấp dẫn chỉ 16,5-17 trong khi các nước 19-20. Hai là xử lý nợ xấu sau khi có Nghị quyết 42 của Quốc hội, cổ phiếu NH "lên" rất mạnh trong thời gian qua, có cổ phiếu tăng 50% trong 6 tháng. Mặt khác, từ năm 2011, NH Nhà nước đã có hệ thống kiểm soát về tỉ lệ cho vay chứng khoán không vượt quá 5% vốn điều lệ của từng NH mà vốn điều lệ của các NH đã không tăng đáng kể trong 4-5 năm qua.
TS Cấn Văn Lực cho rằng trong thời gian tới, NH sẽ quản lý chặt chẽ hơn việc cho vay để đầu tư vào BĐS. Đây là tín hiệu tốt cho thấy Chính phủ có hướng quản lý thị trường này phát triển lành mạnh hơn. Khi dòng tín dụng bị thắt chặt, thị trường BĐS sẽ có những sáng tạo để phát triển các nguồn vốn khác như dùng phương án huy động vốn từ các cổ đông hiện hữu, chuyển nhượng một phần cổ phần của dự án đó cho các đối tác khác, biến họ thành cổ đông của dự án. TS Cấn Văn Lực khuyến nghị cần nhanh chóng thiết lập các định chế tài chính đa dạng như quỹ tín thác đầu tư (REIT) cho phép người dân bỏ vốn vào. Đồng thời cho phép phát hành chứng chỉ đầu tư và được giao dịch trên sàn chứng khoán. Qua đó tạo ra cú hích nguồn vốn cho BĐS và tăng tính thanh khoản cho thị trường.