Bại não do các tổn thương một hoặc nhiều vùng của não, thường xảy ra trong quá trình phát triển của thai nhi trước, trong hoặc sau sinh một thời gian ngắn hoặc trong thời kỳ trẻ nhỏ.
Bại não là một nhóm các rối loạn kiểm soát vận động giống nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau. Bại não bẩm sinh do các tổn thương não xảy ra khi thai nhi còn nằm trong tử cung hoặc trong khi sinh (chiếm 70%). Ở Mỹ, khoảng 10% trẻ bị bại não sau khi sinh. Các tổn thương não xảy ra ở trẻ trước 5 tuổi, sau các trường hợp nhiễm khuẩn thần kinh hay chấn thương sọ não.
Các nguyên nhân gây bại não gồm:
- Nhau thai bất thường không cung cấp đủ ôxy và chất dinh dưỡng cho thai nhi.
- Bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con.
- Người mẹ mắc các bệnh truyền nhiễm trong giai đoạn đầu thai kỳ.
- Trẻ đẻ thiếu tháng hoặc đẻ thấp cân.
- Trẻ thiếu ôxy kéo dài trong khi sinh hoặc vàng da nặng sau sinh.
Các dấu hiệu sớm của bại não thường khởi đầu trước 18 tháng tuổi. Trẻ chậm bò, chậm biết đi so với mốc phát triển bình thường. Trẻ bị giảm trương lực cơ (chi mềm nhũn, buông thõng) hoặc tăng trương lực cơ (cứng đờ hoặc vận động cứng nhắc). Cụ thể:
- Ở thể co cứng (chiếm 70%-80% số trường hợp): Các cơ cứng nhắc và co cứng thường xuyên. Co cứng 2 chân hoặc nửa người.
- Ở thể loạn trương lực (chiếm 10%-20% số trường hợp): Có những vận động bất thường ở 2 chân và 2 tay. Mặt nhăn nhó, nói khó, chảy nước dãi... Các vận động bất thường này mất khi đi ngủ. Ở trẻ lớn có biểu hiện viết chậm, không kiểm soát được động tác.
- Ở thể thất điều (chiếm 5%-10% số trường hợp): Bước đi khó khăn, loạng choạng, khó thực hiện động tác chính xác. Tay chân run.
Tùy theo vùng não bị tổn thương mà trên lâm sàng biểu hiện các triệu chứng đa dạng: co cứng, nuốt khó, nói khó, rối loạn tư thế hoặc vận động. Có thể rối loạn chức năng các giác quan như điếc, mất khưu giác, giảm thị lực. Đôi khi co giật, chậm phát triển tâm thần, bất thường về hô hấp, rối loạn bài tiết. Mất khả năng học tập.
Về điều trị, chủ yếu là quá trình chăm sóc trẻ với sự kết hợp giữa gia đình và các bác sĩ, nhân viên vật lý trị liệu, giáo viên, nhân viên công tác xã hội. Điều này cần bắt đầu từ rất sớm ngay khi phát hiện bệnh của trẻ.
Điều trị bằng nội khoa, phẫu thuật và phục hồi chức năng giúp cải thiện sự phối hợp động tác cơ và dây thần kinh, phòng ngừa hoặc làm giảm tối thiểu các rối loạn chức năng. Ở những trẻ bại não trưởng thành, cần được giáo dục, tư vấn, được đến trường, tạo cơ hội việc làm, giải trí để hòa nhập cộng đồng...
Có nhiều biện pháp phòng bệnh bại não trước sinh: Người mẹ cần được phát hiện và điều trị các bệnh mạn tính, bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục - tiết niệu, tiêm phòng bệnh Rubeol (sốt phát ban dạng sởi) trước khi mang thai. Tránh tiếp xúc tia phóng xạ, tránh dùng thuốc và các chất kích thích trong quá trình thai nghén. Người mẹ phải khỏe mạnh trước lúc thụ thai, chăm sóc trước sinh tốt, chế độ dinh dưỡng đầy đủ để tránh đẻ non tháng, thấp cân. Bảo vệ trẻ không bị các bệnh nhiễm trùng và chấn thương sọ não. Nếu có bất đồng nhóm máu thì trẻ phải được thay máu hoặc điều trị vàng da ngay từ những ngày đầu sau sinh.