Kỳ báo cáo tài chính quý 3/2017, nợ xấu theo giá trị tuyệt đối tăng mạnh ở các ngân hàng triệu tỷ, trong khi tài nguyên vốn tiếp tục được khai thác gần đến giới hạn tối đa.
Đến 30/9/2017, theo báo cáo vừa lần lượt công bố, Việt Nam đã có ba ngân hàng thương mại có quy mô tổng tài sản vượt trên mốc 1 triệu tỷ đồng.
Lợi ích và trách nhiệm lớn nhất tại khối ngân hàng triệu tỷ này thuộc về Nhà nước - cổ đông đang nắm tỷ lệ sở hữu chi phối.
Nợ xấu tăng mạnh
Từ trong năm 2016, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) đã sớm đạt quy mô trên. Hiện ngân hàng này chưa công bố báo cáo tài chính quý 3/2017 chi tiết, còn thông tin cập nhật chung cho biết vẫn tiếp tục dẫn đầu hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam về tổng tài sản.
Bắt đầu từ 2017, và đến kỳ cập nhật 30/9/2017, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) tiếp tục tăng quy mô tổng tài sản riêng lẻ vượt mốc 1 triệu tỷ đồng, đạt 1,055 triệu tỷ đồng.
Đã vượt mốc triệu tỷ vào cuối 2016, đến 30/9/2017, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tiếp tục gia tăng quy mô tổng tài sản riêng lẻ lên 1,102 triệu tỷ đồng.
Trong nhóm 4 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam hiện nay, riêng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chưa gia nhập "câu lạc bộ triệu tỷ" nói trên, nhưng lại là thành viên có quy mô và tốc độ lợi nhuận cao và mạnh nhất.
Theo báo cáo vừa công bố, cả VietinBank và BIDV vẫn đều đặn tạo lãi, song tiếp tục cho thấy khả năng không thể bứt phá theo xu hướng chung ở kết quả nhiều ngân hàng thương mại khác đã công bố. VietinBank có lợi nhuận trước thuế riêng lẻ 9 tháng đầu năm nay 6.418 tỷ đồng, chỉ tăng 3,4% so với cùng kỳ 2016; tương tự BIDV chỉ đạt 6.002 tỷ đồng, tăng 6,7%.
Là những thành viên có quy mô trên triệu tỷ đồng, song lợi nhuận của hai thành viên trên đã bị một số ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân áp sát với quy mô tổng tài sản thấp hơn nhiều lần, điển hình như trường hợp của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)…
Quy mô tổng tài sản trên triệu tỷ đồng, tiếp tục tăng trưởng ở mức độ hai con số, song lợi nhuận tăng trưởng thấp. Điều này phản ánh chất lượng tài sản của những "ông lớn" này, mà một trong những biểu hiện nổi bật ở kỳ báo cáo quý 3/2017 là nợ xấu tăng rất mạnh.
Về tỷ lệ, theo báo cáo, VietinBank kiểm soát nợ xấu đến 30/9/2017 chỉ 1,2% tổng dư nợ, là một trong những mức thấp nhất trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam. Tuy nhiên, về giá trị tuyệt đối lại có gia tăng đáng chú ý.
Cụ thể, trong kỳ công bố trên, cả nợ nhóm 4 và 5 của VietinBank đều tăng mạnh. Nợ có khả năng mất vốn tăng từ 3.790 tỷ cuối 2016 lên 4.932 tỷ, tăng 30,1%; đặc biệt nợ nhóm 4 tăng đột biến, từ 805 tỷ đồng lên tới hơn 3.048 tỷ đồng, tăng tới 278%. Và tổng nợ xấu cũng tăng mạnh từ 6.706 tỷ đồng cuối 2016 lên 9.164 tỷ đến 30/9/2017, tăng tới 36,6%. Trong kỳ, riêng nợ nhóm 3 của VietinBank đã giảm mạnh, từ 2.111 tỷ đồng xuống còn 1.183 tỷ.
Tương tự, tại BIDV, tỷ lệ nợ xấu báo cáo cũng ở mức rất thấp với 1,9% tính đến 30/9/2017, nhưng nợ nhóm 4 và 5 đã tăng rất mạnh. Nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng tới 50% so với cuối 2016, từ 6.466 tỷ lên tới 9.710 tỷ. Nợ nhóm 4 cũng tăng mạnh từ 995,48 tỷ lên tới 1.408,2 tỷ; riêng nợ nhóm 3 giảm được từ gần 5.594 tỷ xuống 4.131 tỷ. Tổng nợ xấu của BIDV theo giá trị tuyệt đối đã tăng từ 13.055 tỷ cuối 2016 lên 15.249 tỷ đồng.
Nợ xấu gia tăng đi cùng với yêu cầu tăng thêm chi phí trích lập dự phòng rủi ro, và điều này lý giải trực tiếp cho tốc độ tăng trưởng lợi nhuận chậm ở những ngân hàng triệu tỷ nói trên.
Giới hạn được báo trước
Những ngân hàng triệu tỷ trên đang có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng khá, nhưng tốc độ tăng lợi nhuận lại thấp. Triển vọng cải thiện lợi nhuận trong tương lai gần chủ yếu phụ thuộc vào kết quả xử lý nợ xấu để tăng hoàn nhập, cũng như thúc đẩy hướng dịch chuyển tín dụng bán lẻ để tăng lãi biên và tài sản sinh lời.
Còn ở định hình chung về tiếp tục tăng mạnh tổng tài sản và tín dụng là khó, tài nguyên có hạn và đã được khai thác gần giới hạn.
Như nhìn vào hoạt động của BIDV 9 tháng đầu năm nay, những dữ liệu cho thấy công suất của cỗ máy đã đẩy rất cao. Ví như, tổng nguồn vốn huy động được 1.053.841 tỷ đồng thì tổng quy mô tín dụng và đầu tư đã lên tới 1.080.702 tỷ đồng; tổng tiền gửi của khách hàng 823.073 tỷ đồng thì tổng cho vay tổ chức kinh tế và dân cư 828.007 tỷ đồng.
Tựu trung, tồn tại ở những ngân hàng triệu tỷ hiện nay vẫn là khó khăn chưa thể tháo gỡ căn bản và lâu dài: tăng được vốn để cải thiện các chỉ số và giới hạn, đặc biệt ở hệ số an toàn vốn (CAR).
Báo cáo của các thành viên này cho biết hiện vẫn đảm bảo CAR trên mức 9%, theo mức tối thiểu Ngân hàng Nhà nước quy định. Tình hình chung, cập nhật mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước đến tháng 6/2017, CAR của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước vẫn đảm bảo với 9,67%, nhưng cho thấy dư địa để tăng trưởng trở nên hạn hẹp.
Để khắc phục, trong 2016 và tiếp tục 2017, các thành viên nhóm trên lần lượt phải phát hành trái phiếu dài hạn để đôn vốn cấp 2, nâng vốn tự có và đảm bảo yêu cầu CAR cho tăng trưởng. Đây là giải pháp bất đắc dĩ, vì phần được tính cho vốn cấp 2 cũng có giới hạn, trong khi chi phí lãi suất phải trả cao vượt trội (trong một kỳ hạn dài) so với huy động vốn thông thường.
Nhưng đó là giải pháp gần như khả thi duy nhất hiện nay, trước yêu cầu không tăng trưởng được tài sản, thì không những lợi nhuận có thể kém đi mà thị phần có nguy cơ chảy sang khối ngân hàng tư nhân với sức mạnh tài chính đang không ngừng thể hiện.
Và như công suất cỗ máy được đẩy cao như trên, cập nhật từ Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, thực tế chung, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động của nhóm này đến tháng 8/2017 ở mức 94,57%. Dù không dùng để xem xét giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định tại Thông tư 36, nhưng tỷ lệ rất cao đó cho thấy giới hạn còn lại cũng đã hạn hẹp.
Những giới hạn đó đã được báo trước, thậm chí đã có biểu hiện căng thẳng từ trong năm 2016, khi các thành viên đưa ra yêu cầu tăng vốn. Cho đến nay, đã gần hai năm trôi qua, yêu cầu vẫn chưa thể đáp ứng, do thiếu hậu thuẫn từ nguồn ngân sách nhà nước, mặc dù lợi ích và trách nhiệm lớn nhất tại khối ngân hàng triệu tỷ này thuộc về Nhà nước - cổ đông đang nắm tỷ lệ sở hữu chi phối.