Sau khi cổ phần hóa năm 2003, sữa Ông Thọ vẫn là sản phẩm chủ lực của Vinamilk, luôn nằm trong top hàng Việt Nam chất lượng cao. Để theo kịp thị hiếu người dùng thay đổi, công ty mở rộng danh mục sản phẩm, cải tiến mẫu mã, chất lượng, phong phú về chủng loại cho phù hợp với từng nhu cầu sử dụng khác nhau.
Sữa đặc vào siêu thị Mỹ
Đầu tháng 7, Nhà máy Sữa Driftwood tại Mỹ, do Vinamilk sở hữu 100% vốn, giới thiệu sữa đặc và creamer tại hội chợ Fancy Food Show. Đây là một trong những hội chợ lớn nhất về ngành thực phẩm tại Mỹ, thu hút hàng ngàn doanh nghiệp uy tín trong lĩnh vực chế biến, sản xuất thực phẩm từ nhiều quốc gia tham dự.
Kết thúc hội chợ, các sản phẩm này đưa vào bán tại các siêu thị ở bang Arizona và California. Đặt chân vào thị trường Mỹ không dễ dàng. Sữa đặc và creamer sản xuất tại Việt Nam phải bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với ngành thực phẩm nói chung và ngành hàng sữa nói riêng, được FDA và USDA công nhận chất lượng, cấp giấy phép nhập khẩu.
Trước đó, sản phẩm sữa đặc Vinamilk đã xuất sang Nhật, Canada, Hàn Quốc, khu vực Trung Đông, ASEAN, châu Phi với nhãn hiệu Ông Thọ, Bestcows, Angle, Captian, Driftwood, Ngôi Sao Phương Nam, chiếm tỉ trọng 34% về sản lượng xuất khẩu năm 2015.
Theo bà Mai Kiều Liên, Tổng Giám đốc Vinamilk, thành công từ việc kiên trì xây dựng nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ trong 40 năm. Công ty đang sở hữu 13 nhà máy tại Việt Nam, 3 nhà máy ở Mỹ, New Zealand và Campuchia. Trong đó, 4 nhà máy tại Việt Nam và một nhà máy ở Campuchia sản xuất sản phẩm sữa đặc với tổng công suất hơn 300 triệu lon một năm, đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.
Sản phẩm sữa đặc của Vinamilk phát triển đa dạng về bao bì với lon thiếc, bao bì hộp giấy và bao bì dạng vỉ nhựa
Hành trình 40 năm
Cuộc hành trình của sữa đặc bắt đầu từ sau giải phóng, khi Vinamilk tiếp quản 3 nhà máy tại miền Nam gồm nhà máy Thống Nhất, Trường Thọ và Dielac. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thiết bị công nghệ cũ kỹ, không có nguồn ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu, sản xuất cầm chừng. “Thời kỳ này, sữa đặc được xem như hàng xa xỉ phẩm do quá khan hiếm và đắt đỏ. Hộp sữa đặc phân phối theo tiêu chuẩn, khi đến tay người tiêu dùng nhiều lon bao bì đã ố vàng nhưng vẫn là niềm ao ước của nhiều người. Chỉ những người ốm hay trẻ nhỏ, người già mới được uống sữa” - bà Mai Kiều Liên nhớ lại.
Để giải quyết khó khăn, lãnh đạo Vinamilk chủ động liên doanh liên kết với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có ngoại tệ, cho ra mắt nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ. Đây là dòng sản phẩm cao cấp, bán tại các cửa hàng Cosevina và Imexco nhằm xuất khẩu tại chỗ lấy ngoại tệ nhập nguyên liệu. Kết quả, từ vài trăm triệu đồng ban đầu, công ty đã nâng vốn tự có lên 20 tỉ đồng vào năm 1987. Năm 1990, do cấm vận kinh tế nên Vinamilk không nhập được phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất, bị động nguồn nguyên liệu. Kỹ sư và công nhân tự thiết kế hình Ông Thọ dập nổi, sáng tạo gia công khuôn nắp lon sữa, tận dụng phế liệu.
Vinamilk tìm hiểu và ký hợp đồng tại các nước sở tại và mua trực tiếp nguồn nguyên liệu bột sữa, dầu bơ với giá rẻ hơn giúp giảm giá thành, cạnh tranh với hàng ngoại. Vinamilk đã lên kế hoạch phát triển hệ thống trang trại bò sữa trong nước nhằm từng bước tự chủ nguồn nguyên liệu. Sau khi cấm vận kinh tế được bãi bỏ, Vinamilk bước sang giai đoạn phát triển mới. Doanh nghiệp nhập máy móc hiện đại nhằm đẩy mạnh sản lượng và tăng cường chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong nước. Mô hình liên kết với người nông dân mở rộng vùng chăn nuôi, đồng thời tự mình hình thành các trang trại chăn nuôi bò sữa từ Bắc chí Nam giúp tổng đàn từ 3.000 con năm 1991 đã vượt lên trên 120.000 con năm 2016, cho sản lượng sữa 200.000 tấn/năm.