Còn ở các nước đang phát triển, tỉ lệ sử dụng kháng sinh không phù hợp còn cao hơn nhiều, chẳng hạn tỉ lệ sử dụng kháng sinh bừa bãi gây kháng thuốc ở Nigeria lên đến 88%, tại Indonesia là 79%...
Kháng sinh được thầy thuốc kê toa cho bệnh nhân để điều trị và phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng. Vi khuẩn bị kháng sinh tiêu diệt hay kìm hãm được gọi là vi khuẩn nhạy cảm với kháng sinh; nếu kháng sinh mất khả năng này sẽ có hiện tượng đề kháng kháng sinh. Hậu quả là vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại và phát triển ngay cả khi kháng sinh được dùng với liều rất cao so với liều điều trị thông thường. Có 2 loại đề kháng kháng sinh:
- Đề kháng tự nhiên: Là thuộc tính di truyền của vi khuẩn. Tất cả vi khuẩn của một chủng nào đó đều đề kháng với một hay một vài kháng sinh nhất định, do đặc điểm cấu tạo hay do khả năng biến dưỡng của nó.
- Đề kháng tiếp nhận: Bình thường vi khuẩn gây bệnh nhạy cảm với kháng sinh, nhưng vì một lý do nào đó như tia xạ hóa chất gây đột biến nhiễm sắc thể làm vi khuẩn không còn nhạy cảm với kháng sinh đó nữa. Loại này ít xảy ra và mang tính tự phát.
Để thực hiện được vai trò khống chế vi khuẩn của mình, kháng sinh cần phải tìm mọi cách gắn dính vào vi khuẩn qua một điểm gắn đặc hiệu gọi là thụ thể, tạo thành liên kết vi khuẩn - kháng sinh, rồi luồn lách để lọt qua hàng phòng vệ vững chắc thành tế bào vi khuẩn. Điều quan trọng bậc nhất là kháng sinh đó không bị phân hủy bởi các men do vi khuẩn tiết ra hay do các phản ứng sinh hóa của chính cơ thể người dùng thuốc.
Vi khuẩn đã tạo ra những cách tự vệ để có thể tồn tại, chủ yếu như sau:
Cách thông thường nhất là phá vỡ cấu trúc, làm mất hoạt tính của kháng sinh. Hai là làm thay đổi điểm gắn kết khiến kháng sinh không nhận diện được, từ đó kháng sinh bị vô hiệu hóa. Ba là giảm tính thấm của thành tế bào, do đó kháng sinh không thể lọt vào bên trong được nên không thể phát huy tác dụng.
Hiện nay, vi khuẩn đề kháng với kháng sinh ngày càng gia tăng do việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, tùy tiện.
Để giảm tình trạng đề kháng kháng sinh ngày một gia tăng như hiện nay, khi bị nhiễm trùng thì phải dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc, không nên tự ý dùng thuốc, đặc biệt là kháng sinh, theo sự mách bảo của người khác. Có như vậy sẽ giảm hiện tượng đề kháng kháng sinh.
Để giảm tình trạng đề kháng kháng sinh, cần tuân theo 7 nguyên tắc sau:
1. Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị bệnh nhiễm khuẩn. Chỉ có thầy thuốc điều trị dựa vào kinh nghiệm chữa bệnh, xét nghiệm và kháng sinh đồ mới xác định được có nhiễm khuẩn hay không.
2. Phải chọn đúng loại kháng sinh mới trị bệnh hiệu quả.
3. Phải có sự hiểu biết về thể trạng người bệnh, đặc biệt là người già, người bị suy gan, suy thận. Chỉ có thầy thuốc điều trị mới có đủ thẩm quyền cho sử dụng kháng sinh.
4. Phải dùng kháng sinh đúng liều, đúng cách.
5. Phải dùng kháng sinh đủ thời gian. Tùy theo loại bệnh và tình trạng bệnh mà thời gian dùng kháng sinh dài hay ngắn nhưng thông thường là không dưới 5 ngày.
6. Chỉ phối hợp nhiều loại kháng sinh khi thật cần thiết.
7. Phòng ngừa bằng thuốc kháng sinh phải thật hợp lý. Chỉ có những trường hợp đặc biệt thầy thuốc mới cho dùng thuốc kháng sinh phòng ngừa, chẳng hạn dùng kháng sinh phòng ngừa trong phẫu thuật do nguy cơ nhiễm khuẩn hậu phẫu.