Đơn vị Cấp nước tiên phong về chất lượng
Với nhiệm vụ chính là bơm nước từ sông Đồng Nai về nhà máy tại Thủ Đức để xử lý thành nước sạch đạt tiêu chuẩn và phân phối đến người dân trên địa bàn TPHCM. Quy trình này vô cùng phức tạp bởi đòi hỏi khắt khe nguồn nước đầu ra chất lượng cao như hiện nay, trong khi nước từ nguồn đầu vào ngày càng có nguy cơ ô nhiễm.
Dòng chảy từ Nhà máy nước Thủ Đức đến người dân TP.HCM đảm bảo chất lượng cao
Nhà máy nước Thủ Đức ban đầu là Sở sản xuất nước sông Đồng Nai (12-12-1966) với công suất tối đa là 450.000m3/ngày. Giai đoạn 1975-1982 nhà máy khắc phục khó khăn để duy trì hoạt động ổn định: thay thế hoàn chỉnh hệ thống bơm nước sông và hoàn tất công tác phủ than cho các bể lọc để nâng công suất nhà máy tăng lên khoảng 560.000m3/ngày. Giai đoạn 1982-1985, thay 6 bộ cánh bơm có công suất lớn hơn cho 6 bơm nước sông Hóa An, nâng công suất lên khoảng 650.000m3/ngày.
Do nhu cầu sử dụng nước sạch ngày càng tăng nên ngành cấp nước tiếp tục cải tạo dây chuyền công nghệ hệ thống châm hóa chất, cải tạo bể lọc và nâng cấp trạm bơm nước sạch nâng tổng công suất nhà máy lên 750.000m3/ngày như hiện nay. Nhà máy nước Thủ Đức đã thực hiện nhiều đợt thay mới máy móc thiết bị chính: thay mới 3 máy biến thế 5.000 kVA ở trạm bơm Hóa An; 2 máy biến thế 5.000 kVA ở Thủ Đức; 6 động cơ bơm nước sông ở Hóa An và 5 bơm nước lọc ở Thủ Đức; Thay cánh bơm của 6 bơm nước sông Hóa An nâng cột áp lên 57m. Bên cạnh đó, công tác bảo trì máy móc thiết bị, tu bổ, bảo dưỡng các công trình, đường ống được thực hiện thường xuyên.
Trước năm 1995, sản lượng nước do nhà máy sản xuất chiếm hơn 92%, năm 2000 chiếm 77,44% lượng nước cung cấp cho TPHCM. Khi Nhà máy nước BOO Thủ Đức (công suất 300.000m3/ngày) và Nhà máy nước Tân Hiệp (công suất 300.000m3/ngày) được đưa vào hoạt động thì Nhà máy nước Thủ Đức giữ vai trò điều tiết sản lượng thích hợp để dần tiếp nhận sản lượng tăng thêm từ các nhà máy này. Tuy vậy, Nhà máy nước Thủ Đức vẫn là đơn vị chủ lực cung cấp trên 50% nhu cầu nước cho sản xuất, đời sống của người dân TPHCM, trở thành "trung tâm điều tiết" áp lực, sản lượng cho toàn bộ hệ thống cấp nước. Ngoài ra, nhà máy còn tham gia điều tiết giảm áp lực khi mạng lưới tiếp nhận nguồn nước mới và sẽ phát tăng dần khi mạng lưới ổn định. Nhà máy cũng phát bù sản lượng khi có bất kỳ nhà máy nào trong hệ thống gặp sự cố. Đảm bảo sản lượng tiêu thụ trên toàn bộ mạng lưới.
Chất lượng làm nên thương hiệu nước máy "của dân, vì dân"
Nhà máy nước Thủ Đức luôn dẫn đầu khi giữ vững và ổn định chất lượng nước, đạt các giá trị theo tiêu chuẩn và đảm bảo các nhu cầu thiết yếu phục vụ xã hội trong nhiều năm qua.
Xác định kiểm soát chất lượng nước là nhiệm vụ quan trọng, vì vậy, từ năm 1997, nhà máy đã chủ động tìm nguồn nguyên vật liệu xử lý nước và nâng cao chất lượng sản phẩm nước sạch, đến cuối năm 2009 nhà máy đã thành công trong việc đưa chất keo tụ PAC thay thế phèn nhôm vào quy trình xử lý nước.
Phong trào phát huy sáng kiến, sáng tạo luôn được cán bộ, công nhân viên nhà máy thực hiện
Để kiểm soát chất lượng nước chặt chẽ, sát với tình hình thực tế sản xuất của các đơn vị và yêu cầu phát triển ngành cấp nước, ngoài kiểm tra định kỳ hàng tháng các mẫu nước sông đầu vào, nước sạch đầu ra, nhà máy còn kiểm tra chất lượng nước trên mạng cung cấp.
Định kỳ hàng tháng kiểm tra chất lượng các mẫu nước được lấy ngẫu nhiên tại các điểm sử dụng nước máy của Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn (Sawaco). Chính quy trình chặt chẽ đã giúp chất lượng nước từ nhà máy luôn ổn định, đạt quy chuẩn trong suốt thời gian qua. Từ đó đã tạo được uy tín thương hiệu "nước thủy cục", "nước máy" trong lòng người dân thành phố.
Những năm gần đây, do biến động của môi trường cùng việc xả thải chưa qua xử lý của các nhà máy tại các khu công nghiệp đã làm cho chất lượng nước sông Đồng Nai ngày càng suy giảm và dần mất đi tính ổn định. Đây là khó khăn, thử thách lớn trong công tác xử lý nước của nhà máy. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước luôn được nhà máy xem là nhiệm vụ quan trọng nhất. Theo đó, nhà máy đã thực hiện chặt chẽ quy trình kiểm tra, giám sát qua từng công đoạn, theo dõi qua hệ thống đo chất lượng nước liên tục (online), thực hiện tốt kế hoạch cấp nước an toàn và hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001:2015 với mục tiêu chung là cấp nước an toàn, chất lượng sản phẩm nước sạch đạt ở mức tốt nhất, vượt hơn yêu cầu của quy chuẩn của Bộ Y tế, tiêu chuẩn quy định để có thể uống trực tiếp tại vòi.
Nhiều dự án của nhà máy đã được áp dụng công nghệ mới, mang lại hiệu quả nhất định, trong đó có những sáng kiến của cán bộ công nhân viên nhà máy tham gia sáng kiến. Cụ thể, dự án lắp đặt biến tần (cho động cơ công suất 1500kW/máy) cho 2 bơm nước sạch về TPHCM. Việc lắp đặt mới biến tần làm tăng khả năng điều tiết mạng lưới, chống thất thoát nước và tiết kiệm điện năng trong hoạt động.
Dự án lắp đặt hệ thống đo chất lượng liên tục (online) tại các công đoạn xử lý từ nguồn nước sông đến khi bơm nước ra khỏi nhà máy hòa vào mạng lưới đã giúp hiệu quả giám sát được liên tục. Chất lượng nước được kiểm soát qua từng công đoạn, từ đó phát hiện kịp thời các biến động về chất lượng nước để xử lý. Đặc biệt, dự án lắp đặt hệ thống SCADA tại nhà máy đã giúp công tác giám sát, vận hành thiết bị từ xa, nâng cao năng suất lao động tiến tới tự động hóa.
Không chỉ đi đầu trong thay đổi, điều chỉnh công nghệ sản xuất, nhà máy còn dẫn đầu toàn ngành trong phong trào nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến cải tiến kỹ thuật và thực hành tiết kiệm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Nhà máy nước Thủ Đức đã chiếm 60% tổng số sáng kiến của toàn ngành cấp nước TPHCM, là đơn vị luôn dẫn đầu phong trào sáng kiến, cải tiến. Cụ thể, trong 10 năm qua, nhà máy có 42 sáng kiến, cải tiến làm lợi hơn 13 tỷ đồng cho đơn vị. những sáng kiến của cán bộ công nhân viên còn giúp nhà máy đảm bảo hoạt động liên tục, công tác sửa chữa được rút ngắn. Giúp dòng chảy từ nhà máy đến nhà dân luôn liên tục và đảm bảo chất lượng cao.