Năm 2007, chị Thanh Hà (quận 4, TP HCM) mua hợp đồng bảo hiểm tích lũy định kỳ vừa ra mắt theo lời "quảng cáo" của nhân viên tư vấn về sản phẩm có tham gia chia lãi. Bên cạnh việc được bảo vệ, chị sẽ nhận được bảo tức và khoản chia lãi cuối hợp đồng. Kỳ vọng về khoản lợi nhuận trong tương lai, chị Thanh Hà thất vọng khi đáo hạn sau 15 năm, số tiền chị không những không sinh lời như gởi ngân hàng, mà còn hụt dăm ba triệu đồng.
Thu về thấp hơn số minh họa được "quảng cáo"?
"Bảo hiểm không thực hiện đúng cam kết ban đầu, số tiền nhận được thấp hơn so với bảng minh họa in rõ trong hợp đồng của tôi, thấp hơn cả số phí mà tôi đã đóng", chị Thanh Hà bức xúc.
Lý giải trong hợp đồng đã nêu rõ các chi phí cố định, trích lập dự phòng rủi ro với mục đích bảo vệ sẽ không được tính vào tài khoản tích lũy sinh lời và lợi nhuận phụ thuộc vào kết quả kinh doanh thực tế từ phía công ty bảo hiểm không làm chị hài lòng.
"Tôi chỉ nghĩ rằng mình đóng bảo hiểm đủ số năm, không gặp rủi ro gì sẽ nhận lại được toàn bộ số tiền đã đóng cộng với tiền lãi như cam kết. Số tiền đó nếu mang gửi tiết kiệm hay đầu tư 15 năm lợi nhuận đã khác", chị Hà nói thêm.
Không chỉ riêng chị Hà nhiều người mua bảo hiểm còn nhầm tưởng bảo hiểm nhân thọ như một sản phẩm tiết kiệm để gửi tiền theo thời hạn và nhận lãi tương ứng hay sản phẩm đầu tư sinh lời theo thời gian. Điều này dẫn đến sự hiểu biết chưa thấu đáo về cơ chế hoạt động của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và thất vọng khi đáo hạn hợp đồng số tiền nhận được thấp hơn kỳ vọng.
Giải mã lý do khiến số tiền nhận lại ít hơn
Mục tiêu chính của bảo hiểm vẫn là bảo hiểm - đề phòng rủi ro, thay vì coi nó như là công cụ sinh lời, với bất kỳ gói bảo hiểm nào kể cả truyền thống hay chia lãi.
Để đảm bảo mục tiêu này, quy tắc chung của các dòng sản phẩm bảo hiểm là sau khi khách hàng đóng phí, phí bảo hiểm đầu tiên sẽ được dùng để trích lập dự phòng theo quy định của Bộ Tài chính. Đây là nguồn phí bảo hiểm rủi ro để chi trả khi rủi ro xảy ra với khách hàng.
Các khoản phí khác để duy trì dài hạn hợp đồng như phí ban đầu, phí quản lý cũng sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm trích lập. Số tiền còn lại sau khi trừ các khoản phí trên sẽ được tích lũy dần trong tài khoản hợp đồng.
Với sản phẩm Bảo hiểm hỗn hợp có tham gia chia lãi như trường hợp của chị Thanh Hà, phí bảo hiểm sẽ tập trung vào Quỹ chủ hợp đồng có tham gia chia lãi. Công ty bảo hiểm mang quỹ này đi đầu tư, lợi nhuận sẽ phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của Quỹ. Để đảm bảo an toàn cho khoản phí của khách hàng, công ty sẽ đầu tư vào các tài sản có thu nhập cố định như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn và cổ phiếu.
"Tôi có thể giải thích lý do chính tác động đến bảo tức, lãi chia cuối hợp đồng thấp trong những năm gần đây là do lãi suất trái phiếu chính phủ giảm và các chi phí liên quan như chi phí trích lập dự phòng tăng theo quy định của Bộ Tài chính", ông Ngô Trung Dũng, Phó Tổng thư ký Hiệp Hội Bảo Hiểm Việt Nam lý giải. Bảng minh họa quyền lợi bảo hiểm thường lấy mức lãi suất tương đối để khách hàng đối chiếu. Trên thực tế, mức lợi nhuận phụ thuộc vào biến động của thị trường. "Cũng có những trường hợp khách hàng nhận quyền lợi đáo hạn hoặc quyền lợi khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thấp hơn tổng phí đóng là do khách hàng có điều kiện sức khỏe dưới chuẩn hoặc nghề nghiệp có tính rủi ro cao. Khi đó, phần chi phí được trích bảo vệ khách hàng trước rủi ro sẽ cao hơn so với người có sức khỏe tốt hay nghề nghiệp có ít rủi ro", ông Dũng nói thêm.
Việc lựa chọn các định kỳ phí như tháng, quý, nửa năm cũng có thể làm cho tổng phí bảo hiểm khách hàng phải đóng cao hơn lựa chọn đóng phí theo định kỳ năm. Kết hợp với việc môi trường đầu tư không thuận lợi sẽ dẫn đến việc quyền lợi đáo hạn có thể thấp hơn tổng phí đóng.
Bên cạnh đó, một hợp đồng bảo hiểm mà khách hàng tham gia có thể gồm sản phẩm chính và các sản phẩm bổ trợ. Thực tế, phí bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm chính mới có giá trị tích lũy, phí các sản phẩm bổ trợ hầu hết hết hạn từng năm. "Nếu chỉ nhìn vào tổng phí đóng và không trừ đi các khoản phí mất đi hàng năm, khách hàng sẽ luôn thấy số tiền tích lũy được thấp hơn đã bỏ ra", chị Ngọc Ánh, nhân viên tư vấn bảo hiểm 5 năm kinh nghiệm chia sẻ.
Thực tế về độ sinh lãi của các sản phẩm bảo hiểm
Thực tế các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ hiện nay đều sinh lãi, trừ một số gói bảo hiểm tử kỳ, sản phẩm bổ trợ mua kèm hợp đồng chính. Lãi nhiều hay ít tùy thuộc vào dòng sản phẩm mà khách hàng chọn lựa. Khách hàng có thể lựa chọn sản phẩm truyền thống hay liên kết đầu tư, tùy theo "khẩu vị" rủi ro của khách hàng. Tuy nhiên, lợi nhuận cao thì luôn đi kèm với rủi ro cao.
Với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống, khách hàng sẽ nhận được bảo tức định kỳ và lãi chia cuối hợp đồng phụ thuộc vào tình hình hoạt động của Quỹ chủ hợp đồng mà khách hàng tham gia. Đây cũng là sản phẩm chị Thanh Hà tham gia, quyền lợi bảo vệ luôn được chú trọng và giá trị gia tăng là khả năng sinh lời. Các quyền lợi của loại hình này gồm quyền lợi đảm bảo và quyền lợi không đảm bảo, và Bảng minh họa cũng luôn thể hiện rõ ràng về 2 phần quyền lợi này dành cho chủ sở hữu hợp đồng.
Riêng dòng sản phẩm liên kết đầu tư sẽ bao hàm cả hai yếu tố: bảo vệ và đầu tư sinh lợi nhuận. Điều này có nghĩa là chỉ với một sản phẩm bảo hiểm, người tham gia sẽ vừa được bảo vệ tài chính trước các rủi ro, vừa có cơ hội gia tăng tài sản tích lũy qua hoạt động đầu tư tại các quỹ liên kết.
Các sản phẩm bảo hiểm sẽ khó đáp ứng các kỳ vọng về mức độ sinh lãi của một khoản tiết kiệm hay đầu tư thuần túy bởi mục tiêu chính của bảo hiểm vẫn là bảo vệ. Tham gia gói bảo hiểm sau chị Thanh Hà 2 năm, khi chưa tới thời gian đáo hạn hợp đồng, anh Duy Hùng (45 tuổi, Thái Bình) gặp tai nạn. "Số tiền tôi được bảo hiểm giải quyết quyền lợi là 200 triệu đồng. Không thấm tháp so với nỗi đau 2 chân thương tật vĩnh viễn nhưng rất đúng lúc với gia đình tôi tại thời điểm đó", anh Hùng chia sẻ. Sau 5 năm xảy ra tai nạn, anh đã ổn định cuộc sống và tiếp tục công việc dạy học của mình. Theo anh, khách hàng đến với bảo hiểm nhân thọ cần xác định mục tiêu trước tiên là bảo vệ, để tránh những hiểu lầm và thất vọng không đáng có về lợi nhuận.