Năm 2008, chẳng mấy dân Pháp để ý đến việc lâu đài Haut-Brisson của họ đã đổi chủ. Dần dần, hơn 100 lâu dài tráng lệ phía Tây Nam nước Pháp đã thuộc quyền sở hữu của người Hoa.
Ở Bordeaux, họ bỏ ra trung bình khoảng 10 triệu euro để mua một lâu đài, kèm theo đó là hàng ngàn ha vườn nho xung quanh. Ðây là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp rượu vang, vốn đóng góp 2% GDP của Pháp. Mỗi năm, người Hoa lại xuất khẩu hơn 80% sản lượng rượu vang sản xuất được tại Pháp về Trung Quốc đại lục.
Nguyên nhân của làn sóng mua lâu đài này bắt nguồn từ thực tế Trung Quốc là thị trường tiêu thụ rượu vang Bordeaux lớn nhất thế giới, đạt giá trị nhập khẩu 250 triệu USD hằng năm. Nhìn rộng ra, cứ hễ mặt hàng nào có giá trị nhập khẩu cao, thì các doanh nghiệp nước đó sẽ lập tức trở thành mục tiêu thâu tóm của các công ty Trung Quốc.
Thích thú với tài sản từ Âu-Mỹ
Không dừng lại ở châu Âu, kể từ năm 2005 với phi vụ Lenovo mua lại mảng PC của IBM, tổ chức American Enterprise Institute và Heritage Foundation ghi nhận vốn đầu tư trực tiếp trên thế giới của Trung Quốc đã đạt mốc 1.100 tỉ USD đến thời điểm hiện tại.
Thông qua dòng vốn FDI và các chính sách ngoại giao kinh tế, nhà đầu tư người Hoa đang vươn tay sở hữu những khối tài sản khổng lồ khắp toàn cầu và trải rộng trên mọi lĩnh vực từ hạ tầng, công nghiệp chế xuất cho đến khoa học không gian.
Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, đang nắm trong tay lượng dự trữ ngoại hối hơn 3.500 tỉ USD và sở hữu tổng dự trữ vàng chính thức lên tới 1.708,5 tấn, đứng thứ 5 toàn cầu. Trong năm 2014, nếu tổng lượng vốn FDI đầu tư vào nội địa Trung Quốc đạt 128 tỉ USD, thì tổng lượng vốn mà các doanh nghiệp nước này đầu tư ra thế giới lại lớn hơn nhiều, đạt gần 147 tỉ USD.
Ðầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc phân bố theo lãnh thổ từ 2005-2015
Sự chênh lệch gần 20 tỉ USD giữa 2 luồng vốn ra - vào quốc gia này là bắt nguồn từ 3 nhóm động cơ chính. Thứ nhất, dòng vốn lớn của người Hoa đầu tư ra thế giới tăng đều qua các năm là do mục đích tìm kiếm các nguồn tài nguyên. Kế đến là việc dư thừa nguồn cung từ sản xuất trong nước. Cuối cùng là mục đích đầu tư mang ý nghĩa ngoại giao, kinh tế và chiến lược.
Ðịnh hướng tìm kiếm nguồn tài nguyên của người Hoa tập trung vào những lĩnh vực chủ chốt như năng lượng dầu khí, chất đốt, khoáng sản, chiếm 40% tổng số vốn FDI dành cho các dự án đầu tư ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Các doanh nghiệp nước này rót lượng vốn “khủng” mua cổ phần chi phối nhiều tập đoàn năng lượng bản địa lớn, không chỉ để phục vụ mục tiêu xuất khẩu tài nguyên ngược về Trung Quốc, giải quyết sự thiếu hụt đầu vào của nền công nghiệp nước này, mà còn nhằm mục đích tăng dự trữ quốc gia cho thế hệ sau.
Lĩnh vực dầu khí là điển hình. Với vị thế là nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, Trung Quốc tận dụng sức mạnh nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ để giành quyền kiểm soát các nguồn cung cấp dầu khắp thế giới, trải khắp các châu lục như tại Cameroon, Canada, Kazakhstan, Iraq, Nigeria, Sudan, Mỹ hay Venezuela.
Thông qua 2 công ty quốc gia là PetroChina và Sinopec, Trung Quốc đang chiếm 1/4 trong tổng sản lượng 560.000 thùng dầu mỗi ngày của Ecuador. Người Hoa cũng chiếm gần 90% lượng dầu xuất khẩu của Ecuador về cho đại lục, sau khi tranh thủ ràng buộc nền kinh tế của đất nước Nam Mỹ này từ cuộc khủng hoảng năm 2008 bằng các khoản vay dài hạn 30 năm có mức lãi suất cao kỷ lục 8%/năm.
Dù Trung Quốc là quốc gia đứng thứ 6 thế giới về tổng giá trị tài nguyên, có giá trị ước tính 23.000 tỉ USD với 90% trong số đó nằm ở các mỏ than và khoáng sản đất hiếm nhưng nước này thể hiện rõ chiến lược dự trữ tài nguyên cho thế hệ kế cận khi hạn chế khai thác trong nước.
Nhiều năm liên tiếp, Trung Quốc vượt qua Nhật trở thành nền kinh tế nhập khẩu than nhiều nhất thế giới. Lượng than và quặng sắt họ nhập khẩu tăng trên 10% qua các năm và đạt ngưỡng lần lượt 267 triệu tấn và 950 triệu tấn vào năm ngoái. Trung Quốc đang trở thành kho dự trữ tài nguyên nhiên liệu khô hóa thạch khổng lồ của nhân loại.
Thực tế, học thuyết thương mại phi lãnh thổ trong một thế giới phẳng đã được Trung Quốc thực hiện sâu rộng, giúp đẩy bánh xe GDP của quốc gia này tăng trưởng phi mã trong hàng thập kỷ. Việc này dẫn đến tình trạng dư thừa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp nước này, đặc biệt trong ngành thép và cơ khí chế tạo.
Trước tình thế đó, các công ty Trung Quốc đã phải đẩy mạnh xuất khẩu lượng hàng dư thừa ra bên ngoài lãnh thổ thông qua việc lập chi nhánh sản xuất, hoặc mua bán, sáp nhập và hợp nhất các doanh nghiệp cùng ngành tại nhiều quốc gia khác. Ví dụ, để tấn công thị trường thép của những quốc gia Trung Á, nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc Baosteel Group đã mua lại 69,61% cổ phần Bayi Steel Group ở Tân Cương.
Bước tiếp theo, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định tham vọng muốn khôi phục một phiên bản hiện đại của tuyến đường thương mại cổ mang tên “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa thế kỷ XXI” trên biển và mạnh tay đầu tư 62 tỉ USD dự trữ ngoại hối phục vụ cho sáng kiến này. Vành đai kinh tế nói trên bao gồm các tuyến đường thương mại trên lục địa nối liền Trung Á, Nga và châu Âu, cùng những tuyến hàng hải thông suốt từ Tây Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương.
Sau đó, ông Tập đưa ra gói tín dụng trị giá 46 tỉ USD vào hành lang kinh tế Trung Quốc - Pakistan, với điểm kết thúc là vịnh Gwadar trên biển Arab. Với những bước đi này, người Hoa đang muốn khôi phục tầm ảnh hưởng toàn cầu như thời đại nhà Hán Vũ Đế. “Đây là một trong số ít những giai đoạn lịch sử người ta nhớ đến Trung Quốc mà không liên quan đến sức mạnh quân sự” - Giáo sư sử học Trung Quốc Valerie Hansen thuộc Đại học Yale nhận định.
Tuy nhiên, điều thú vị nhất chính là nằm ở học thuyết nền kinh tế Trung Quốc toàn cầu. Nước này đưa ra định nghĩa rằng công dân Trung Quốc là người dùng hàng Trung Quốc. Từ đó, xứ sở của Vạn Lý Trường Thành có sự gia tăng không ngừng về sức mạnh quân sự, kinh tế. Đây chính là động cơ để lý giải cho sự xuất hiện của hàng loạt các dự án đầu tư ngoại giao, kinh tế và chiến lược của người Hoa.
Trung Quốc học bài học này từ người Mỹ. Còn nhớ vào năm 1947, thời hậu Thế chiến thứ Hai, Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là George Marshall được coi là cha đẻ của kế hoạch ngoại giao, kinh tế lớn nhất và thành công nhất trong lịch sử thế giới. Lúc đó, ông đã đề xuất chi ra 17 tỉ USD cho kế hoạch mang tên “Chương trình phục hưng châu Âu”, nhằm viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để giúp khôi phục các quốc gia châu Âu sau chiến tranh.
Và mấu chốt kèm theo đó chính là các điều khoản chính trị. George Marshall nhân danh các dự án viện trợ đã thiết lập sự ảnh hưởng của Mỹ, vốn là nước vẫn bảo toàn được số dự trữ vàng và ít bị tàn phá nhất sau Thế chiến, lên vùng lãnh thổ gồm hơn 20 quốc gia châu Âu với số dân hơn 3 tỉ người. Nhờ kỳ tích này mà cho đến tận ngày nay, vị trí Ngoại trưởng Mỹ luôn là “ghế nóng” và đóng vai trò then chốt trên chính trường Mỹ, cũng như quyền lực trên chính sách ngoại giao của Mỹ với thế giới.
Ðối diện bên kia bờ Thái Bình Dương, vào năm 1962, chính sách ngoại giao kinh tế của Trung Quốc đã được Đặng Tiểu Bình đặt nền móng bằng “Thuyết kinh tế con mèo”. Thế là người Hoa mạnh lên hơn bao giờ hết khi thâu tóm dần các khối tài sản tư bản lớn trên khắp địa cầu, giống như chính sách của George Marshall trước đó liên quan đến hàng loạt lĩnh vực cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu.
Cụ thể là các tài sản hữu hình như đất đai (Trung Quốc mua tập đoàn khách sạn Mỹ Starwood Hotels & Resorts Worldwide Inc, chủ của chuỗi khách sạn Shereton), tài chính (Ngân hàng Công thương Trung Quốc ICBC mua lại 20% Ngân hàng Standard của Mỹ), công nghiệp giải trí (thâu tóm hãng AMC Entertainment Holdings ở Mỹ), công nghiệp chế biến (mua lại Smithfield Foods của Mỹ).
Cả tài sản vô hình cũng không thoát khỏi bàn tay của người Hoa, như bằng sáng chế (Trung Quốc sở hữu 7% số lượng sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm của thế giới) hay bản quyền truyền hình (khống chế giá bản quyền truyền hình Ngoại hạng Anh).
Trong vòng nửa thập kỷ gần đây, tài sản lớn nhất mà người Hoa nắm giữ chính là trái phiếu chính phủ Mỹ từ cuộc suy thoái kinh tế năm 2008. Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS, châu Á là chủ nợ dưới dạng trái phiếu thanh toán bằng USD lớn nhất của Mỹ với giá trị lên tới trên 6.000 tỉ USD, và Trung Quốc đã chiếm gần 1/3 trong số này.
Giới chuyên gia cho rằng bất cứ động thái cắt giảm bớt số trái phiếu chính phủ Mỹ khổng lồ mà Trung Quốc nắm giữ sẽ ngay lập tức tác động đến nền tài chính toàn cầu, gián tiếp khiến chi phí đi vay ở Mỹ đắt đỏ hơn.
“Mua” cả Đông Nam Á
Mới đây, Trung Quốc vừa lên kế hoạch đầu tư 30 tỉ USD xây dựng kênh đào Kra ở phía Nam Thái Lan, nhằm thiết lập một tuyến đường thủy nối biển Andaman và vịnh Thái Lan. Bước đi chiến lược này hiện thực hóa tham vọng mở tuyến giao dịch thương mại tại Đông Nam Á thông qua kênh đào Kra, chia sẻ thị phần trung chuyển 1/4 lượng hàng hóa toàn cầu qua eo biển Malacca. Tất cả nhằm tạo nên đối trọng và giảm lượng tàu hiện đang tập trung tại khu cảng biển Singapore.
Tổng thực tế đầu tư ra nước ngoài (OFDI) của Trung Quốc vào Đông Nam Á đa dạng trên nhiều lĩnh vực then chốt như bất động sản, công nghệ và cơ sở hạ tầng. Tỉ lệ OFDI của Trung Quốc trong lĩnh vực khai mỏ ở Đông Nam Á chiếm đến 30% tổng số OFDI của họ tại Đông Nam Á. Trong vòng 10 năm qua, Thái Lan đã nhận gần 3 tỉ USD vốn FDI của Trung Quốc.
Quốc gia đông dân nhất thế giới cũng đã ký kết hàng loạt các hợp đồng lớn với Indonesia và Malaysia, Philippines nhằm hợp tác trên lĩnh vực năng lượng. Ví dụ như việc ký kết với Myanmar một thỏa thuận để xây dựng đường ống dẫn dầu thô trị giá 2,3 tỉ USD, hay sự kiện nhà sản xuất than đá lớn nhất Trung Quốc Shenhua công bố dự án than đá trị giá 331 triệu USD ở Sumatra của Indonesia, nơi chiếm đến 16% tổng lượng nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng của Trung Quốc.
Đỉnh điểm, Trung Quốc khởi xướng thiết lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) và nắm 30% cổ phần, nhằm từng bước hoàn thành mục tiêu quốc tế hóa đồng nhân dân tệ trong hệ thống thanh toán toàn cầu và tạo đối trọng với Ngân hàng Thế giới. Sau động thái này, đồng nhân dân tệ đã đạt vị thế thanh toán mới trên thị trường ngoại hối khi được quy đổi trực tiếp với đồng franc Thụy Sĩ (CHF), đô la Singapore (SGD), đồng euro, đồng bảng Anh và đô la New Zealand (NZD).
Theo thời báo Pháp Les Echo, vì Trung Quốc đóng góp 32% tăng trưởng toàn cầu và chiếm 30% lượng đầu tư trên thế giới, nên châu Âu cũng “cần có một kế hoạch đối phó với Trung Quốc, phải có một chiến lược đối mặt với một cường quốc”.