Bức ảnh ngược sáng
Có người còn cho rằng không phải các vùng sáng tạo nên bức ảnh mà chính vùng tối quyết định bức ảnh đó. Thật vậy, nếu không có vùng tối trong một bức ảnh, thì khó có thể nào nói ánh sáng đã được xử lý như thế nào. Trên tinh thần đó tôi xin nói về ánh sáng dựa trên sự nghiên cứu các vùng tối. Trong thực tế xử lý ánh sáng trong mỗi lần chụp, tôi chỉ quan tâm chính tới các vùng này để biết được các nguồn sáng đã được bố trí như ý muốn chủ quan ban đầu chưa.
Tôi định trao đổi bài này bằng các tình huống cụ thể với chi tiết về bố trí đèn, tạt sáng, chủ đề… nhưng cũng như nhiều người, tôi có nhiều sách dạng này lắm và không có cuốn sách nào có thể nói hết được tất cả các tình huống ánh sáng. Cách tốt nhất là tách riêng ánh sáng và nghiên cứu nó, hiểu và xác định được nó thì việc chi phối, áp dụng nó trong mọi trường hợp trở nên đơn giản hơn rất nhiều.
Nếu bạn là một người lãng mạn, thích sự may rủi và hồi hộp cho ánh sáng của mỗi bức ảnh hay mỗi lần chụp thì tôi khuyên bạn không nên đọc tiếp, vì khi nắm rõ các khái niệm này và làm chủ được nó thì việc chụp ảnh cũng giống như bao việc khác: “Chán lắm… có bi nhiêu đó… mần hoài”.
+ Ghi chú: Bài viết chỉ chủ yếu nói về ánh sáng trong studio, về nguyên tắc thì ánh sáng ngoài trời cũng không có sự khác biệt, nhưng khả năng chủ động xử lý nguồn sáng trời ít hơn nhiều. Chỉ có những người kiên trì, xử lý nhanh tình huống mới có được nhiều ảnh đẹp khi sử dụng ánh sáng trời. |
Nguồn sáng phân tích là nguồn sáng đơn. Việc xử lý đa nguồn sáng cũng bắt nguồn từ việc xử lý từng nguồn sáng đơn này.
Mỗi nguồn sáng được quyết định bởi 5 yếu tố chính:
- Độ gắt - dịu
- Độ sáng
- Hướng sáng
- Nhiệt độ màu
- Khoảng cách từ nguồn sáng tới chủ đề
Mời bạn đọc Thế giới @ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về 5 yếu tố chính này:
1. Độ gắt - dịu
a. Xác định:
Để biết được nguồn sáng gắt hay dịu ta dựa vào các vùng bóng đổ trên chủ đề. Các vùng này càng đậm và rõ bao nhiêu, thì nguồn sáng gắt bấy nhiêu và ngược lại, càng mờ càng dịu. Cách đơn giản nhất để xác định là dùng đôi tay của chính bạn. Bạn hãy đưa một ngón tay trước nguồn sáng, sao cho bóng của ngón tay này đổ trực tiếp trên lòng bàn tay còn lại. Trong trường hợp tay kia của bạn bị bận thì có thể nhờ tạm bàn tay của người mẫu, chỗ khác cũng được nhưng phải cẩn thận ;). Nếu bạn thấy bóng của ngón tay đậm, rõ ràng thì nguồn sáng là gắt. Ngược lại nếu bóng của ngón tay mờ hoặc rất mờ thì ánh sáng là dịu hoặc rất dịu.
b. Nguyên nhân:
Ánh sáng gắt: là do nguồn sáng nhỏ, xa chủ đề. Hoặc nguồn sáng lớn nhưng do cách quá xa chủ đề nên các “tia” sáng tiếp cận chủ đề coi như song song. Cụ thể:
Đèn flash gắn trực tiếp trên máy, hướng thẳng vào chủ đề mà không qua một thiết bị/đối tượng tán sáng nào.
Đèn flash trong studio có hoặc không có sử dụng loa che sáng thông thường. Việc dùng tổ ong (horney comb) cũng cho kết quả tương tự.
Đèn halogen, HMI… nói chung là bất cứ loại gì mà trong khi sử dụng, cho nguồn sáng nhỏ, “tia” sáng tiếp cận chủ đề gần như song song.
Ngoài trời thì ánh sáng mặt trời khi đã lên cao, trời không mây và chiếu thẳng trực tiếp lên chủ đề. So với trái đất thì mặt trời to hơn rất nhiều nhưng do ở quá xa nên trong thực tế thì cũng cỡ cái đĩa to là cùng.
Ánh sáng gắt thường cho ra các bức ảnh có độ tương phản cao, nổi rõ chi tiết của chủ đề.
Ánh sáng dịu: là do nguồn sáng lớn, gần chủ đề hoặc đi xuyên qua/phản xạ từ các chất liệu/bề mặt tán sáng, ví dụ soft box, vải dù, giấy can, tạt sáng, tường nhà, trần nhà, ánh sáng mặt trời xuyên qua mây, hay trong những ngày trời đầy mây, v.v… Trong thực tế nguồn sáng được đặt càng gần chủ đề bao nhiêu thì càng dịu bấy nhiêu. Nói cách khác khi các “tia” sáng tiếp cận chủ đề theo vô số hướng khác nhau sẽ cho hiệu ứng dịu, hay còn gọi là nguồn sáng tán. Vậy nếu bạn đi mua các thiết bị tạo ánh sáng dịu như dù, soft box, tạt sáng, thì càng to càng tốt. Trong trường hợp lâm thời bạn có thể sử dụng ngay trần nhà, vách tường sáng để tạo ánh sáng dịu, chỉ có điều cẩn thận khi trần hay tường nhà có màu không phải màu trung tính. Lý do là các màu khác màu trung tính sẽ ảnh hưởng đến màu sắc của bức ảnh.
Ánh sáng dịu thích hợp cho các ảnh có độ tương phản thấp, các ảnh không có yêu cầu cao về chi tiết vật chụp, hay thậm chí làm mờ đi chi tiết bề mặt vật chụp.
c. Ứng dụng:
Vậy là đã rõ làm sao để có ánh sáng gắt và dịu, trong thực tế chụp ảnh thì ta có thể tóm tắt như sau:
+ Ảnh chân dung: Việc đặt nguồn sáng càng gần chủ đề thì hình ảnh càng dịu (soft) che dấu hoặc làm mờ bớt được đa số các chi tiết bất lợi như nếp nhăn, mụn… Không chỉ riêng thiếu nữ, mà bất cứ ai yêu cầu bạn chụp cho họ những bức ảnh dịu nhẹ, ít nếp nhăn thì chỉ cần: To, tán, gần. Ngược lại nếu muốn có những bức ảnh chân dung mà ở đó đòi hỏi lột tả chi tiết chân dung nhân vật thì: Nhỏ, gắt, xa.
+ Ảnh tĩnh vật, quảng cáo, sản phẩm: Tương tự như trong chụp chân dung nêu trên, nếu bạn mong muốn có những hình ảnh có độ tương phản cao, nổi rõ chi tiết bề mặt vật chụp thì trong đa số các trường hợp: Nhỏ, gắt, xa sẽ cho kết quả như ý. Ngược lại: To, dịu, gần sẽ cho các ảnh có độ tương phản thấp, dịu, thậm chí mơ màng, chi tiết bề mặt vật chụp không rõ nét, sắc sảo. Ngoài ra, ánh sáng gắt dễ tạo nên các điểm lóa sáng trên chủ đề, đặc biệt là các vật, thủy tinh, kim loại bóng, hay các vật bóng nói chung. Ngược lại, ánh sáng dịu ít tạo nên các điểm lóa sáng trên các loại vật chụp/chủ đề nêu trên.
2. Độ sáng
a. Xác định:
Độ sáng của một nguồn sáng phụ thuộc chính vào khả năng và công xuất của nguồn sáng và được xác định bằng các thiết bị đo, hay các phép tính cụ thể. Nhiều người sử dụng kinh nghiệm của mình và đôi khi rất chính xác. Đối với tôi, chắc chắn nhất vẫn là máy đo.
Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm, thiết bị đo ánh sáng của các hãng khác nhau với giá từ vài chục USD tới hơn một ngàn USD, nhưng theo tôi cứ cái nào cho kết quả đúng và chính xác là tốt rồi, nhất là khi ngân sách cho chụp ảnh eo hẹp.
Ánh sáng của một tấm ảnh còn phụ thuộc vào các yếu tố khác trong khi chụp như độ nhạy sáng của film hay sensor, khẩu độ ống kính, và tốc độ chụp. Tuy nhiên, để cho đơn giản ta tạm qui ước là các thông số này giữ nguyên, chỉ có cường độ ánh sáng là thay đổi thôi.
b. Tác dụng:
Cường độ ánh sáng quyết định chi tiết cho một tấm ảnh. Film, sensor có khả năng cảm nhận ánh sáng thấp hơn nhiều so với mắt người. Tại những khoảng của cường độ sáng nhất định, chi tiết của vật chụp không được thể hiện trên film, hay sensor, tôi tạm gọi đó là các khoảng mù.
Có hai khoảng mù: khoảng quá tối và khoảng quá sáng. Điều này đặc biệt quan trọng nhất là các hình ảnh của bạn được in lại bằng công nghệ in offset thông thường, nơi mà khoảng mù này rộng nhất so với các thiết bị/chất liệu thể hiện hình ảnh thông thường (monitor, giấy ảnh, TV…).
Nhìn trên đồ thị RGB histogram của một bức ảnh (bạn có thể xem đồ thị RGB level của một bức ảnh cũng được) thì những phần có trị số RGB thấp hơn 25 (chắc chắn nhất là 28) tạm gọi là khoảng mù tối. Những phần của chủ đề nằm trong khoảng này gần như hay hoàn toàn không thể hiện chi tiết trên film, sesor, nói cách khác là không thấy gì, tối đen. Những phần trên bức ảnh có trị số RGB cao hơn 249 (chắn chắn nhất là 245) tạm gọi là khoảng mù sáng. Tại những phần này chi tiết vật/chủ đề chụp trên film, sensor gần như không được thể hiện, trắng tinh. Điểm yếu này của film trong những trường hợp cụ thể có thể có lợi, hoặc bất lợi. Vậy ứng dụng của nó là gì?
c. Ứng dụng:
Như phân tích ở trên ta thấy rằng để có được những khoảng hoàn toàn đen thì ánh sáng chiếu đến các vùng này phải thấp, yếu sao cho trị số những vùng đó trên film, sensor nằm trong khoảng mù tối. Trong thực tế thường các vùng này có chỉ số đo thấp hơn ít nhất 3 khẩu (3 stop) so với khẩu độ chụp. Trị số thực tế phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng càng ít hơn càng tốt. Vậy nếu bạn muốn có một bức ảnh với phông đen hoàn toàn thì làm sao đó phông của bạn được chiếu sáng thiếu ít nhất là 3 khẩu.
Ngược lại để có được những vùng trắng hay phông trắng thì ánh sáng chiếu đến các vùng này phải cao, cao sao cho trị số những vùng đó trên film, sensor nằm trong khoảng mù sáng. Trong thực tế thường các vùng này có chỉ số đo cao hơn ít nhất 1 1/2 khẩu so với khẩu độ chụp. Trị số thực tế phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng đừng quá cao. Nếu cao quá ảnh có thể bị mù, hallow hay không trong.
Theo nguyên lý trên thì, trong chụp ảnh chân dung, việc chiếu sáng chủ đề sao cho các vùng muốn che dấu khuyết điềm nằm trong các khoảng mù, hoặc gần sát với khoảng mù. Cụ thể nếu bạn chiếu sáng khuôn mặt của người mẫu hơi dư sáng một chút thì sẽ không thấy được các khuyết điểm về da của người mẫu, cũng như các nếp nhăn trở nên không rõ ràng, khó xác định và ngược lại bạn có thể che các khuyết điểm này trong khoảng mù tối.
Trong chụp ảnh sản phẩm thì việc có các khoảng mù tối hay mù sáng xuất hiện trong ảnh không được ủng hộ lắm, nhất là hình dùng trong bao bì sản phẩm. Nơi mà mọi thứ cần phải rõ ràng, trung thực.
Trong quảng cáo thì vô cùng, nhưng các khoảng mù sáng không nên có, lý do là các thiết bị in offset sẽ tạo nên các bước nhảy gắt từ vùng an toàn đầy đủ thông tin sang vùng mù sáng và làm cho bức ảnh không êm, hiếm có nhà làm thiết kế/quảng cáo chuyên nghiệp nào chấp nhận điều này.
3. Hướng sáng
Trực diện (frontal lighting), ngược (back lit), xiên (side lighting), trên xuống (top lighting), dưới lên (lighting from the bottom) là những từ người ta dùng để nói về hướng sáng. Đọc các từ này thì chắc các bạn cũng có thể mường tượng được vấn đề. Ở đây tôi chỉ bàn về các ứng dụng của từng loại.
Trực diện, với vị trí nguồn sáng chiếu trực tiếp vào đối tượng, hay nguồn sáng nằm trên trục của ống kính, ví dụ rõ ràng nhất đó là đèn flash gắn trực tiếp trên thân máy, hay ống kính (đèn flash tròn, ring flash), hay bạn treo đèn ngay phía trên hay dưới ống kính, hay bất cứ vị trí nào miễn là luồng sáng chiếu trực tiếp lên chủ đề được coi như trực diện. Khi đó mọi bóng đổ đều nằm khuất phía sau vật chụp. Tại vị trí này, cái gì nằm trong “khoảng nhìn” của ống kính đều được chiếu sáng gần như nhau. Với cách bố trí đèn như vậy thì chủ đề xuất hiện trong bức ảnh sẽ rất rõ về hình dạng, bù lại thì chi tiết, cấu trúc bề mặt vật chụp không bật lên được, bức ảnh bẹt (flat), không nổi khối, nhất là nguồn sáng là nguồn sáng dịu. Cách bố trí ánh sáng này chỉ phù hợp với hình nghiên cứu, khoa học, hình chụp lại (copy) các văn bản giấy tờ, hình ảnh không phản sáng. Nói thế không có nghĩa cách bố trí đèn này không phù hợp trong chụp chân dung thời trang.
Trong ảnh chân dung và thời trang thì cách bố trí này đa số dùng để làm đèn phụ (fill light) để xóa bớt các bóng do các nguồn sáng chính tạo nên. Nếu nguồn sáng là nguồn sáng dịu/tán thì việc nâng cao vị trí đèn về phía trên ống kính sẽ cho bạn một kiểu ánh sáng chân dung, thời trang rất đẹp. Nếu bạn xem báo thời trang nước ngoài thì đa số hình bìa hay các hình người mẫu chính được chụp với nguồn sáng chính tại vị trí này. Đơn giản vì hình sẽ có bố cục ánh sáng đều, ưa nhìn, các khiếm khuyết về da và gương mặt ít lộ rõ nhất. Trong thực tế sử dụng thì phải bố trí các nguồn sáng phụ khác để xóa bóng phía sau chủ đề.
Ngược, nguồn sáng đặt phía sau chủ đề và hướng thẳng về phía ống kính. Với vị trí bố trí này thường thì toàn bộ phần biên của chủ đề sẽ nổi rõ, phía trước chủ đề tối đen. Cách bố trí này nhằm tạo đường ven cho chủ đề, hay dùng để tách chủ đề ra khỏi phông. Nếu bố trí cao thì có thể coi như đèn tóc (hair light), chếch sang hai bên thì để tạo ven hay kicker (thứ lỗi cho tôi không bíết gọi bằng gì trong tiếng Việt). Bố trí thì dễ nhưng khai thác và làm chủ loại ánh sáng này thì khó do rất dễ bị lóa sáng (flare) hay bức ảnh nhìn giả tạo, chát. Tuy nhiên nếu làm chủ được loại ánh sáng này thì ảnh sẽ rất dễ đẹp. Ở Việt Nam thì hay được dùng trong chụp ảnh nude, nhiều bức đẹp vô cùng!
Trên xuống, nguồn sáng nằm trực diện phía trên đỉnh đầu vật chụp. Cách bố trí này ít được dùng trong ảnh chân dung nó tạo nên các khoảng tối thui phía dưới hốc mắt, dưới mũi, và dưới cằm, có thể là vài chỗ nữa (tùy theo trang phục của người mẫu ;), nhất là khi nguồn sáng nhỏ và xa chủ đề. Nếu đặt hơi chếch về phía sau thì có vai trò làm đèn tóc. Trong chụp hình sản phẩm thì cách bố trí này cũng hay được dùng nhưng thường là hơi chếch về phía trước chủ đề và nguồn sáng thường to, tán/dịu, gần.
Dưới lên, nguồn sáng được chiếu trực tiếp từ dưới lên. Cách bố trí đèn như thế này rất ít dùng trong ảnh chân dung, nó làm cho người xem khó chấp nhận, do đi ngược lại trong tự nhiên. Trong tự nhiên ít khi nào bạn gặp thứ ánh sáng này. Trong phim thì nhiều hơn, và đa số là trong các phim ma, kinh dị. Trong chụp ảnh sản phẩm thì loại ánh sáng này có chỗ đứng nhất định, nó được dùng để xóa bóng, soi sáng vật chụp, tuy nhiên phải cẩn thận, do như đã nói dễ cho ảnh không thật, giả tạo.
Xiên, đây là loại cho hiệu quả dễ đẹp nhất, an toàn nhất trong tất cả các loại. Vị trí của đèn nằm ngoài các vị trí đặc biệt nêu trên và ngang hay quá lắm là hơi sau chủ đề một tí thôi.
Trong thực tế, con mắt và thần kinh của chúng ta quen nhất với loại ánh sáng này. Nó làm cho việc phân biệt bề mặt chi tiết đối tượng, hình khối của đối tượng dễ dàng nhất. Nếu không phải nhằm tạo hiệu ứng gì quan trọng, cầu kỳ hay thậm chí cải lương thì tôi thích sử dụng loại ánh sáng này nhất. Nhiều khi chúng ta cứ tự làm khó mình khi bắt ép chính chúng ta phải tạo ra các bức ảnh với hiệu ứng đặc biệt, sử dụng quá nhiều nguồn sáng khác nhau cùng một lúc. Đặc biệt thì đôi khi đặc biệt thật, nhưng đẹp, ưa nhìn hay không thì lại là chuyện khác. Loại hướng sáng như thế này đã được các bậc thầy về hội họa sử dụng hàng thế kỷ trước khi có phát minh ra máy chụp ảnh và các bức họa của họ thì tới bây giờ hậu thế cũng phải thán phục.
Do nằm chếch về một phía so với trục máy ảnh-chủ đề nên các bóng đổ do nguồn sáng ở các hướng này luôn được tạo ra. Chính sự xuất hiện của các bóng này mà ta biết được hướng của nguồn sáng, hình khối của vật chụp, chi tiết, cấu trúc bề mặt vật chụp. Vấn đề còn lại là đặt ở đâu là đẹp nhất theo quan điểm của người chụp là điều đáng để quan tâm. Trong chụp ảnh chân dung, thường thì nguồn sáng này được đặt chếch một hướng 45 độ so với trục máy ảnh-người mẫu và hơi cao lên phía trên người mẫu và máy ảnh.
Điều cuối cùng tôi muốn nói ở đây là, trong chụp ảnh chân dung việc đặt nguồn sáng xê xích, qua lại, lên xuống đôi ba tấc không quan trọng nhưng trong chụp ảnh quảng cáo, thực phẩm, và các sản phẩm nhỏ, việc xê dịch nguồn sáng vài phân thôi cũng có thể làm nên bức ảnh đạt nhưng cũng có thể phá hỏng một bức ảnh đúng ra rất đẹp.
4. Nhiệt độ màu
Nói tới ánh sáng không thể không nói tới nhiệt độ màu. Không chỉ nhiệt độ màu có tác động trực tiếp tới màu sắc của vật chụp trong bức ảnh mà nó còn tạo hiệu ứng thời điểm, tâm trạng (mood), xúc cảm cho bức ảnh. Bức ảnh tông sáng với ánh sáng hơi xanh cho ta cảm giác nó được chụp vào buổi sáng, trong lành. Cũng với bức ảnh đó nhưng ám sắc vàng óng cho ta cảm giác của một buổi hoàng hôn lãng mạn. Và cũng với bức ảnh đó nhưng ánh sáng xanh xao, nhờ nhờ cho ta cảm giác nó được chụp vào buổi tối dưới ánh đèn neon yếu ớt. Vậy cụ thể nhiệt độ màu là gì.
Người ta dùng nhiệt độ K để chỉ nhiệt độ màu. Khi nung nóng một thanh sắt, thì tại một nhiệt độ bất kỳ nào đó, thanh sắt sẽ phát ra một màu nhất định. Dựa trên hiện tượng này người ta đo đạc và đưa ra khái niệm nhiệt độ màu. Về cơ bản thì nhiệt độ càng thấp, ánh sáng càng đỏ, nhiệt độ càng cao thì ánh sáng càng xanh. Ví dụ khi ta bật bật lửa gaz lên thì phần màu vàng phía trên ngọn lửa có nhiệt độ thấp hơn phần màu xanh của ngọn lửa, trong hàn hơi (gió đá) cũng vậy. Vậy lần sau khi mồi thuốc lá bạn nên dí điếu thuốc vào phần có lửa xanh nhé, nhanh hơn cỡ vài phần của giây đấy :).
Thế nào là một bức ảnh/hình đúng nhiệt độ màu? Lấy gì làm chuẩn? Trong nhiếp ảnh và in ấn một bức ảnh/hình được gọi là đúng nhiệt độ màu nếu những vật thể, chủ đề trong bức ảnh/hình đó có màu sắc giống như vật thể, chủ đề thực khi so sánh trong cùng điều kiện ánh sáng trắng (day light), hay ánh sáng có nhiệt độ 5,500 độ K.
Làm sao để xác định được nhiệt độ màu của nguồn sáng? Chắc bạn sẽ nghĩ ngay tới máy đo. Vâng đúng như thế, nhưng nếu bạn không muốn hay không sẵn sàng chi cho khoản tiền vài trăm tới trên dưới một ngàn USD thì cũng ổn thôi. Thực ra chụp ảnh không phải là một ngành đòi hỏi chính xác tuyệt đối. Việc chênh nhau vài chục độ K hay thậm chí 100 độ K thì cũng chả khác nhau là mấy.
Trong thực tế thì ta có thể tạm dùng các loại film chụp ảnh, filter trên ống kính hay trên đèn để có được bức ảnh đúng nhiệt độ màu trong những trường hợp cụ thể. Dùng như thế nào, loại nào thì chắc bạn phải hỏi nhà sản xuất, tôi thì chịu. Đối với đa số các máy kỹ thuật số thì thường máy sẽ có cách để tự động nhận biết nhiệt độ màu của chủ đề sắp chụp (Auto White Balance) mặc dù đôi lúc các tính năng này dở vô cùng, thường là trong môi trường ánh sáng nhân tạo, hay ánh sáng yếu. Trong các máy kỹ thuật số chuyên nghiệp thì việc đạt được cân bằng trắng dễ dàng hơn, do có nhiều lựa chọn hơn cho người sử dụng, những nhà chuyên nghiệp. Cụ thể bạn có thể chọn các tùy chọn định trước, auto, hay xác lập nhiệt độ màu chính xác theo như nhiệt độ màu mà bạn đã biết hay đo được. Nếu bạn vẫn không thành công thì tôi có trình bày một cách đơn giản để có bức ảnh cân bằng trắng www.vnphoto.net/forums/showthread.php?t=5110.
Đa số các đèn flash thông thường có nhiệt độ màu khoảng từ 5,000 độ K tới 5,500 độ K. Đèn halogen, đèn tóc (tungsten) thì thấp hơn, khoảng 2,800 tới 3,200 độ K. Ngoài trời thì nhiệt độ ánh sáng trời không mây, vào buổi trưa có nhiệt độ khoảng 5,500 độ K. Trong bóng râm khoảng 7,500 độ K, trời đầy mây khoảng 6,500 độ K, ánh sáng đèn neon trắng thông thường khoảng 3,800 độ K.
Biết được nhiệt độ màu của nguồn sáng rồi thì việc bắt bức ảnh có sắc màu theo ý mình không khó lắm. Trong máy kỹ thuật số, hay trong khi xử lý ảnh trong các chương trình chuyển đổi file raw thì muốn bức hình đúng cân bằng trắng, thì bạn phải chọn đúng nhiệt độ màu của nguồn sáng dùng tại thời điểm chụp. Muốn hình ám sắc vàng thì chọn nhiệt độ màu cao hơn thực tế, ngược lại nhiệt độ màu thấp hơn thực tế sẽ cho ảnh ám sắc xanh. Đối với tôi, trong chụp ảnh người mẫu tôi chụp với đèn flash và chọn nhiệt độ màu khoảng 6,000 độ K. Như vậy thường những ảnh của tôi luôn có sắc vàng như chụp dưới ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn.
Trình bày vấn đề về nhiệt độ màu này một cách đơn giản trên giấy thật khó đối với tôi, nhất là phần áp dụng, theo tôi cách đơn giản nhất là chịu khó chụp thật nhiều với các tùy chọn khác nhau và bạn sẽ có được kinh nghiệm về vấn đề này. Tôt hơn cả là trước khi tiến hành thực tập bạn nên đọc thật kỹ các cách thức lấy cân bằng trắng trên máy từ sách hướng dẫn của nhà cung cấp.
5. Khoảng cách từ nguồn sáng tới chủ đề
Bao xa đó chính là câu hỏi ở đây. Ảnh hưởng của nó như thế nào trong thực tế?
Như trên đã nói, nguồn sáng càng gần chủ đề thì càng dịu, càng xa chủ đề thì càng gắt. Nếu chỉ có vậy thì không nói làm gì, nhưng khoảng cách của nguồn sáng tới chủ đề sẽ quyết định cường độ sáng của nguồn sáng. Cường độ này tăng, giảm theo bình phương sự tăng giảm theo khoảng cách giữa nguồn sáng và vật chụp. Cụ thể khi khoảng cách gần hơn gấp đôi thì cường độ sáng tăng lên gấp bốn lần. Ngược lại khi khoảng cách này xa đi gấp đôi thì cường độ sáng giảm đi gấp bốn lần.
Vậy, nếu bạn muốn ánh sáng giảm trên phông thì không phải là kéo đèn ra xa vật chụp mà ngược lại, kéo lại gần vật chụp hơn nữa. Giả thiết ở đây là vật chụp nằm giữa phông và đèn.
Nắm được đặc điểm này của ánh sáng đôi khi bạn có thể tiết kiệm được khá nhiều tiền cho việc sắm đèn của bạn. Đơn giản để khép thêm một khẩu trên ống kính bạn phải tăng gấp đôi công xuất đèn hiện có tại cùng một vị trí bố trí đèn (trong khi các thông số khác không đổi). Nếu đèn hiện tại bạn đang có đã xử dụng hết công xuất thì có nghĩa là phải mua thêm một cái đèn nữa có cùng công suất hay thay bằng một đèn khác có công xuất gấp đôi. Trong khi đó bạn chỉ phải kéo đèn gần lại thêm một ít thôi miễn là điều kiện cho phép.
Trên đây là những khái niệm cơ bản của ánh sáng trong nhiếp ảnh mà tôi đúc kết được trong quá trình tham gia vào lĩnh chụp ảnh, hy vọng ít nhiều giúp ích cho những ai mới bước chân vào lĩnh đẹp đẽ và tốn kém này. Để hiểu tường tận vấn đề tôi đề nghị bạn nên mua hẳn một cuốn sách chuyên đề hay tham dự một khóa đào tạo chuyên nghiệp. Và quan trọng nhất đó là chụp thật nhiều, thử thật nhiều. Một khi bạn nắm vững được vấn đề thì điều tưởng là khó hóa ra thật dễ dàng.