xem thêm
An Giang
Bình Dương
Bình Phước
Bình Thuận
Bình Định
Bạc Liêu
icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

Thoi thóp thổ cẩm Tây Nguyên

Bài và ảnh: Văn Công Hùng

Người dân không lấy sợi từ cây gai rừng nữa mà mua chỉ công nghiệp về dệt vải để may váy, áo, dồ, khố... Trong khi đó, chính đồng bào Tây Nguyên giờ đây cũng không còn mấy ai mặc trang phục truyền thống

Như mọi dân tộc trên trái đất này, sau thời ăn lông ở lỗ, người Tây Nguyên lấy lá cây che thân. Sau thời lá cây là vỏ cây. Thời vỏ cây kéo dài cho đến sát thế kỷ XX.

“Cải tiến” theo thị trường

Nếu ai đã đọc tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc thì đều biết dân làng Kông Hoa của Anh hùng Núp cũng từng mặc áo, khố vỏ cây. Nói vỏ cây nhưng thực ra nó là lớp lụa của một loại cây, khá bền và mỏng. Vỏ cây đập dập ra thì tước được một lớp lụa. Qua bàn tay khéo léo của các cô gái, nó thành một thứ có thể quấn quanh người để che những chỗ cần che và để ấm nữa.

Cho đến gần đây, đàn ông Tây Nguyên vẫn đóng khố cởi trần, đàn bà vẫn mặc váy và mặc kệ cho ngực... tung tăng đi chơi. Chỉ đến khi trở thành vợ, thành mẹ, phụ nữ Tây Nguyên mới mặc áo che ngực. Rồi cũng như mọi dân tộc trên trái đất này, người Tây Nguyên dệt vải và may quần áo từ những sợi chỉ lấy từ cây gai rừng.

Mới đây, khi đến làng Dor 2, xã Glar, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai, tôi mới biết một việc diễn ra đã khá lâu rồi mà mình không hay. Ấy là, giờ bà con không lấy sợi từ cây gai rừng để dệt nữa mà mua chỉ công nghiệp về dệt vải để may váy, áo các loại.

Ngày xưa, bà con vào rừng tìm cây gai lấy vỏ, tước thành sợi rồi nhuộm. Người Tây Nguyên chuộng mấy màu cơ bản như đỏ, đen, chàm, xanh - cũng có thể là do nó dễ làm. Sợi ấy dệt thành vải, dùng may thành các loại trang phục như váy, áo, khố, dồ (tấm đắp và dùng để địu con)...

Xưởng dệt của chị Mlop ở huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai
Xưởng dệt của chị Mlop ở huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai

Thoạt nhìn, có cảm giác màu sắc, hoa văn trên trang phục truyền thống của tất cả cư dân cùng sống ở dải đất Tây Nguyên đều giống nhau song không phải thế. Mỗi dân tộc có họa tiết, hoa văn khác nhau; cách phối màu, vị trí cũng khác nhau... Sở dĩ mới nhìn, ta có cảm giác giống nhau là bởi chúng có sự tương đồng lớn. Ở Gia Lai có 2 dân tộc bản địa chính là Jrai và Bahnar. Họa tiết, hoa văn trên váy hoặc tua khố của 2 dân tộc này rất khác, dù mới nhìn thì thấy chúng na ná nhau.

Mlonh bên những sản phẩm do mẹ con cô làm ra
Mlonh bên những sản phẩm do mẹ con cô làm ra

Đồng bào Tây Nguyên thường trong đời chỉ có vài bộ váy, áo do họ tự dệt. Dệt được một tấm vải để làm dồ, váy, áo hoặc khố rất công phu và tốn thời gian, có khi đến mấy tháng trời. Vậy nên, giờ bà con “cải tiến”, mua chỉ màu về dệt, vừa nhanh mà lại vừa đẹp, nhiều màu sắc.

Tôi hỏi đi hỏi lại Mlop, người có một xưởng dệt ở làng Dor 2, chị cho biết may váy, áo vẫn dùng màu sắc cũ; còn làm các loại túi xách, mũ, áo... du lịch thì mới phối màu theo thị trường. Cả huyện Đăk Đoa giờ chỉ còn làng Dor 2 và cả làng này chỉ có mẹ con chị Mlop duy trì nghề dệt.

Trung tâm Khuyến công tỉnh Gia Lai có về xã Glar đầu tư mở một lớp khá hiện đại, mỗi học viên đi học dệt vải được nhà nước chi 15.000 đồng/ngày. Chị Mlop là giáo viên, được khoán trọn gói một khóa 3 tháng là 5 triệu đồng. Không chỉ dạy ở lớp, chị còn về nhà mở xưởng, vừa dạy vừa giúp chị em trong làng có thu nhập thêm.

Bất cứ ai nhàn rỗi đến nhà Mlop đều có việc cho làm. Đơn giản nhất là gỡ chỉ trong cuộn thành từng “sợi”. Mỗi “sợi” như thế là mấy cuộn chỉ với nhiều màu theo thứ tự để may từng thứ khác nhau qua hướng dẫn của chị. May túi thì khác, áo hay bóp, mũ... cũng khác, do ý đồ phối màu, xong rồi đến dệt. Từng “sợi” chỉ sau khi dệt thủ công sẽ cho ra những miếng vải đủ loại để may từng thứ theo yêu cầu.

Mỗi người đến làm ở nhà chị Mlop đều được trả khoán theo công việc. Thu nhập tùy việc họ đến sớm hay muộn, có người 30.000 đồng, cũng có người được 100.000 đồng/ngày. Mùa khô ít người đến nhất bởi bà con đi làm rẫy nhưng mùa mưa thì phụ nữ trong làng rảnh rỗi nhiều. Mùa hè còn có học sinh tham gia. Chịu khó kiếm thêm như thế cũng có đồng ra đồng vào để chi tiêu, bớt đi việc ngồi lê rồi sinh ra đủ chuyện không hay.

Chủ yếu cầm cự

Cái khó nhất của chị Mlop là thiếu vốn. Từ “vốn” thì đến bất cứ cơ sở kinh doanh nào cũng thấy nó vang lên đầy thiểu não. Nhưng ở cái xưởng bé bé của Mlop thì khác, bởi đồng bào Tây Nguyên rất thật thà, họ làm xong và lấy tiền ngay trong ngày, không trả tiền là... không về, trong khi hàng của chị bán rất chậm.

Chị Mlop có cô con gái là Mlonh ở cách nhà mẹ chừng 200 m. Cô đảm nhận việc may. Cứ có vải bên mẹ chuyển sang là Mlonh may. Tất nhiên, giờ đầu ra rất khó nên cô chỉ may khi có người đặt. Tôi đặt giúp bảo tàng văn học của Hội Nhà văn 2 bộ váy áo truyền thống của phụ nữ Jrai và Bahnar. Té ra giá rất rẻ, chỉ chưa đầy triệu đồng một bộ nhưng nếu tính công ra thì nhiều kinh khủng. Ví dụ, để có một tấm vải may váy, nếu dệt nhanh, liên tục thì vài tuần; còn cà kê vừa làm vừa... lên “phây” có khi phải mất mấy tháng. Mà như đã nói, để ra một sản phẩm cuối cùng như váy, áo, khố... cần rất nhiều công đoạn.

Tôi hỏi Mlop về tương lai của nghề này, chị bảo: “Khó lắm, chủ yếu cầm cự cho các cháu trong vùng biết nghề, chứ có bán được đâu, dù rất rẻ”. Thường thì các sơ ở nhà thờ gỗ Kon Tum điện đến đặt. Cùng con gái làm xong, Mlop trực tiếp chạy xe máy từ làng ra TP Pleiku, rồi đi xe đò lên Kon Tum giao cho các sơ. Nhà thờ gỗ Kon Tum là điểm có đông khách tham quan nên họ hay mua những sản phẩm này về làm kỷ niệm. Ngoài ra, chị còn mang đến Pleiku ký gửi. Rồi một vài tỉnh phía Nam cũng đặt, chị lại đóng thùng chở ra bến gửi xe đò...

Trong cuộc sống hằng ngày của đồng bào Tây Nguyên, giờ đây, trang phục truyền thống hầu như không ai mặc. Khi vào thăm 2 xưởng của Mlop và Mlonh, tôi thấy cả mẹ con chị và một số thợ đều mặc áo thun quần tây. Có lần tôi dẫn mấy ông bạn nhiếp ảnh về làng, nhờ đồng bào mặc đồ truyền thống để chụp hình. Thế là bà con nháo nhào chạy khắp nơi... mượn!

Vậy nên, thi thoảng ta vẫn bắt gặp vài cảnh buồn cười trên truyền hình là bà con Tây Nguyên đi làm rẫy mà mặc đồ truyền thống mới tinh. Ôi giời, các phóng viên của chúng ta nài nỉ đồng bào đấy, chứ bình thường họ chả mặc! Đơn giản, vì để có được một bộ đồ truyền thống thì rất kỳ công, trong khi hàng chợ rẻ rề lại sặc sỡ, thời trang, tội gì không mua về mặc? Nói thổ cẩm thoi thóp là vì thế.

 

Không gọi là thổ cẩm

Chẳng biết ai là người đầu tiên gọi những tấm vải, váy, khố, áo... của người Tây Nguyên là thổ cẩm nhưng bà con thì không gọi thế. Cũng như giờ, ai cũng gọi cơm nướng ống của người Tây Nguyên là cơm lam. Xin thưa, không phải vậy! Lam là động từ, chỉ một cách nấu cơm của người dân tộc phía Bắc - nấu trong ống nứa. Khi vào Tây Nguyên, thấy bà con ở đây nấu như thế, họ cũng gọi đó là cơm lam. Lâu dần, đến mức bây giờ, một số nhà hàng của chính người Tây Nguyên cũng gọi món cơm ống của mình là cơm lam. Thực ra, không chỉ có lam cơm, người ta còn lam cá, lam thịt, lam rau... và có thể nó ra đời từ thời chưa có đồ đồng, đồ sắt, phải dùng ống nứa thay nồi.

Nghệ nhân Mlop tặng tác giả một sản phẩm thổ cẩm
Nghệ nhân Mlop tặng tác giả một sản phẩm thổ cẩm

Cũng như cái cách bây giờ người ta gọi Khan, H’amon, H’ri của người Tây Nguyên là trường ca hoặc sử thi. Về làng hỏi đồng bào, ai cũng ngơ ngác nhưng gọi mãi, sách giáo khoa cũng dùng thế nên trẻ em dân tộc thiểu số đi học về đều gọi H’amon, Khan... là trường ca!

 

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo