Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 61/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Để người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người dân rõ hơn những thay đổi này, nhất là các quyền lợi, nghĩa vụ trong thực hiện chính sách, phóng viên Báo Người Lao Động đã có cuộc trao đổi với bà Lê Thị Kiều Phượng, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm TP HCM, về những quy định mới này.
Phóng viên: Xin bà cho biết những thay đổi trong việc thực hiện chính sách BHTN hiện nay?
- Bà Lê Thị Kiều Phượng: Từ ngày 15-7-2020, Nghị định số 61/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN có hiệu lực.
Theo đó, một trong số các quy định sửa đổi, bổ sung mới được NSDLĐ quan tâm là nội dung tại khoản 1 điều 1 (sửa đổi, bổ sung khoản 2 điều 3 Nghị định 28/2015/NĐ-CP). Cụ thể, NSDLĐ gặp khó khăn dẫn đến nguy cơ phải phải cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 30 lao động (LĐ) trở lên đối với NSDLĐ có sử dụng dưới 200 LĐ; từ 50 LĐ trở lên đối với NSDLĐ có sử dụng từ 200 LĐ đến 1.000 LĐ; từ 100 LĐ trở lên đối với NSDLĐ có sử dụng trên 1.000 LĐ, không kể LĐ giao kết hợp đồng lao động (HĐLĐ) theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn dưới 1 tháng.
Những trường hợp được coi là bất khả kháng theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 47 Luật Việc làm, bao gồm: hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh làm thiệt hại một phần hoặc toàn bộ cơ sở vật chất, thiết bị, máy móc, nhà xưởng có xác nhận của chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi NSDLĐ bị thiệt hại...
Người lao động làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại sàn giao dịch việc làm do Trung tâm Dịch vụ việc làm TP HCM tổ chức
Riêng về mức đóng BHTN, Nghị định 61/2020/NĐ-CP có sự thay đổi gì không?
- Nghị định số 61/2020/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung khoản 2, khoản 3 điều 12 Nghị định 28/2015/NĐ-CP về đóng BHTN. Theo đó, người lao động (NLĐ) được xác định là đang đóng BHTN theo quy định tại điều 49 Luật Việc làm khi thuộc một trong các trường hợp:
Một là, NLĐ đã đóng BHTN của tháng chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc (HĐLV) và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH. Hai là, NLĐ đã đóng BHTN của tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH. Ba là, NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, HĐLV hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, HĐLV mà nghỉ việc do ốm đau, thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH. Bốn là, NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, HĐLV hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, HĐLV mà nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH. Năm là, NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, HĐLV hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, HĐLV mà tạm hoãn thực hiện HĐLĐ hoặc HĐLV từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Nghị định số 61/2020/NĐ-CP cũng nêu rõ tháng đóng BHTN của NLĐ được tính nếu NSDLĐ và NLĐ đã thực hiện HĐLĐ hoặc HĐLV và đã đóng BHTN. Trường hợp NLĐ đã được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp (TCTN), sau khi chấm dứt hưởng TCTN mới được cơ quan BHXH xác nhận bổ sung thời gian đóng BHTN thì thời gian này được xác định là thời gian đóng nhưng chưa hưởng TCTN theo quy định tại khoản 1 điều 45 Luật Việc làm.
Bà có thể nói rõ việc hưởng TCTN theo nghị định mới có thay đổi gì không?
- Nghị định số 61/2020/NĐ-CP còn sửa đổi, bổ sung một số phương thức xác minh để NLĐ hưởng BHTN. Như sửa đổi, bổ sung khoản 2 điều 16 quy định, bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu của một trong các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV. Đối với trường hợp NLĐ không có các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ do đơn vị SDLĐ không có người đại diện theo pháp luật và người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền thì thực hiện theo quy trình đó là: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc BHXH cấp tỉnh gửi văn bản yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư xác nhận đơn vị SDLĐ không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền.
Với trường hợp NLĐ tham gia BHTN theo quy định tại điểm c, khoản 1, điều 43 Luật Việc làm thì giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng là bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu của hợp đồng đó.
Phải nộp đề nghị nếu không muốn hưởng TCTN
Nghị định 61/2020/NĐ-CP cũng bổ sung khoản 4 điều 17 như: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN, nếu NLĐ không có nhu cầu hưởng phải trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác nộp đề nghị không hưởng TCTN cho Trung tâm dịch vụ việc làm nơi NLĐ đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN.
Viết bình luận